Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương mười sáu

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9427)
Chương mười sáu

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG MƯỜI SÁU

95.-ÂM:

Phục thứ : "Tu Bồ Đề! Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ trì, đọc tụng thử kinh, nhược vi nhơn khinh tiện, thị nhơn tiên thế tội nghiệp ưng đọa ác đạo, dĩ kim thế nhơn khinh tiện cố, tiên thế tội nghiệp tức vi tiêu diệt, đương đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

NGHĨA:

Lại nói tiếp: "Này Tu Bồ Đề! Nếu trai lành, gái tín nào thọ trì, đọc tụng kinh này, mà bị chúng khinh dễ, là vì người ấy đời trước mắc tội nghiệp đáng lẽ đọa vào ác đạo, cho nên đời nay bị chúng khinh dễ, như vậy cái tội nghiệp đời trước mới là tiêu diệt, thì sẽ đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

 

Giải : Tăng Nhược Nột giải: Bài trước nói về sự làm lành, bài này nói về sự dứt dữ; hễ tạo ra nghiệp thì không trốn khỏi quả báo, còn tu pháp Bát Nhã đổi đặng nghiệp trọng làm khinh.

Trong Đại Luận có nói: "Đời trước làm tội nghiệp đáng đọa vào địa ngục, bởi nhờ tự tánh Bát Nhã, nên chịu nghiệp khinh, là bị người khinh bỉ, cũng phạm tội trọng tử hình, mà có kẻ thế lực phò hộ, thì đặng chịu tội nhẹ; xử trượng mà thôi".

Trần Hùng giải: Tri chơn kinh này có cái công đức rất lớn lao, nên đáng cho các cõi nhơn, thiên, cung kỉnh cúng dường; mà bởi sao, nay lại bị người khinh bỉ? Là bởi người ấy đời trước tội nghiệp nặng nề; đáng đọa vào Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh, A tu la đời đời kiếp kiếp nay nhờ cái công trì kinh, nên chỉ bị người khinh bỉ mà thôi, thì tội nghiệp của đời trước đều tiêu diệt hết, sau này sẽ đặng thành tựu quả vị Bồ đề.

Người đời phần nhiều ưa làm dữ, mà không ưa làm lành, nhằm khi thấy người trì kinh ấy, bị người khinh tiện, bèn cho là đọc kinh vô ích. Phước báu lời nói luống, đến đỗi có sự mắng của ông Vân Môn, sự rầy của ông Dược Sơn. Những người tưởng như thế là làm cho mỗi người phải khởi lòng  thối chuyển vậy.

Phật nói bài này là sở dĩ để giúp chỗ lành mà cứu chỗ thất cho đời.

Nhan Bính giải: Như người đời trước làm sự tội nghiệp, mà đời này bị người khinh tiện; đáng đọa vào ác đạo, mà hay thọ trì đọc tụng kinh này, bây giờ rõ tánh, ví như hư không của Thái Hư, mới biết là tánh tội vẫn không. Cho nên nói: "Tội nghiệp đời trước thảy đều tiêu diệt, lại đặng quả vị Vô thượng Chánh giác".

Thuở xưa có hai thầy Tỳ Khưu, một ông phạm tội dâm, một ông phạm tội sát, trong lòng không an, đến cầu ông Ba La Mật  Tôn giả  sám hối. Ông Ba La Mật sám hối  cho hai ông; hai ông ấy càng thêm e sợ. Sau khi gặp ông Duy Ma Đại sĩ, vì giải thuyết việc ấy rằng: "Tánh tội vẫn không, không ở trung gian cùng trong hay ngoài". Hai ông ấy nghe rồi liền ngộ; bấy giờ vắng lặng rỗng rang, có tội đâu mà có! dùng theo pháp Tiểu thừa

 

Cho nên ông Vĩnh Gia có nói:

 

Thuyết phá của Duy Ma Đại sĩ.

Ví như trời nắng tuyết sương tiêu.

 

Phó Đại sĩ giải:

Tụng:

Tiền thân gây tội chướng, Nay lại thọ trì kinh.

Bằng bị người khi báng, Thế thì tội giảm khinh.

Nghiệp duyên như đã tỏ. Mê chấp chẳng còn sanh.

Tánh Bát Nhã thường quán, Tự nhiên sẽ chứng thành.

 

Lý Văn Hội giải: Ấy là nói: Như người thọ trì đọc tụng kinh này, đáng cho Thiên, Nhơn cung kỉnh, mà lại bị các sự khổ vì đau ốm nghèo hèn lại bị người ghét bỏ; người đời thấy vậy cho là tụng kinh làm lành không có chi chứng nghiệm bèn sanh lòng nghi hoặc - Nào có biết: Nếu không công đức, trì kinh ấy thì phải đọa vào ác đạo; nhờ người khinh bỉ mà bởi đặng nghiệp báo trong ba đường, mau chứng thành quả vị  Vô thượng.

Trương Vô Tận giải:

Tụng:

 

Bốn mùa lạnh nóng, mãi lần qua.

Phàm Thánh bao nhiêu chỉ sát na.

Tội nghiệp tiền thân nay phải chịu,

Chịu rồi mới hết nghiệp oan gia.

 

Xuyên Thiền sư giải: Chẳng bởi một việc, chẳng thêm đặng một sự khôn.

Tụng:

Khen không ắt, chê không ắt,

Một lý thông rồi muôn việc chắc.

Chẳng thiếu chẳng dư tợ Thái hư,

Ví người tặng hiệu Ba la mật.

96.-ÂM:

Tu Bồ Đề! Ngã niệm quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp, ư Nhiên Đăng Phật tiền, đắc trị bát bá tứ thiên vạn ức na do tha chư Phật, tất giai cúng dường thừa sự, vô không quá giả. Nhược phục hữu nhơn ư hậu mạt thế, năng thọ trì đọc tụng thử kinh, sở đắc công đức, ư ngã sở cúng dường chư Phật, công đức bá phần bất cập nhứt, thiên vạn ức phần, nải chí toán số thí dụ sở bất năng cập.

NGHĨA:

Tu Bồ Đề! Ta nhớ đời quá khứ, kiếp vô lượng a tăng kỳ, trước Phật Nhiên Đăng, Ta đã có gặp đặng tám trăm bốn ngàn muôn ức na do tha ([129]) chư Phật, Ta thảy đều cúng dường thờ phụng, chẳng có bỏ qua. Nếu lại có người sau đời mạt pháp ([130]) hay thọ trì đọc tụng kinh này, chỗ đặng cái công đức sánh với công đức của Ta cúng dường chư Phật thì công đức của Ta không bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần muôn, một phần ức; cho đến cũng không bằng một phần thiệt nhỏ tột số không thể mà đếm tính ví dụ đặng.

 

Giải : Sớ Sao : Phật nói "Cái công đức cúng Phật của Ta chẳng bằng công đức người trì kinh trong một phần ngàn muôn ức", cho nên nói: Cho đến cũng không bằng một phần thiệt nhỏ tột số không thể mà đếm tính ví dụ đặng.

Vương Nhựt Hưu giải: A tăng kỳ  là  vô ức số, na do tha: nhứt vạn vạn (một trăm triệu: 100.000.000).

Nói là vô lượng vô ức số kiếp, ở trước Phật Nhiên Đăng  thì Phật  Thích Ca  thuyết kinh này đã cách đời Phật  Nhiên Đăng  đến vô ức vô số kiếp rồi.

Lại khi trước ấy gặp tám trăm bốn ngàn muôn ức na do tha  chư Phật ra đời, thì cái kiếp số thiệt nhiều hết sức, mà Phật nhãn đều thấy đặng, bởi tánh huệ không cùng, nên những việc từ đời  vô thỉ  đến nay thảy đều biết cả; vậy mới đặng làm Phật. Người người cũng đều có tánh huệ ấy, nhưng bị căn trần  nó che lấp, nên không đặng như thế.

Công đức cúng dường chư Phật như thế mà không bằng công đức trì kinh, bởi cúng dường thuộc về  tài thí, phước báu  ấy hưởng càng ngày càng bớt, rốt rồi cũng có khi hết. Còn trì kinh thuộc về gieo căn lành, thì căn lành càng ngày càng tăng trưởng cho đến thành quả Phật, nên mới không cùng. Dùng "có hết", sánh "không cùng"; cho nên nói: Chẳng bằng.

Trần Hùng giải: A tăng kỳ  và na do tha  đều là  vô số. Lịch kiếp vô số, cúng Phật vô số thì cầu phước mà thôi, chẳng bằng thọ trì chơn kinh này thì rõ đặng bổn tánh, thoát khỏi luân hồi.

Ngũ Tổ có nói: "Trọn ngày cúng dường chỉ cầu phước điền, chẳng cầu thoát khỏi biển khổ sanh tử, tự tánh nếu mê, phước nào cứu đặng". Cho nên công đức cúng Phật tuy trăm phần, ngàn muôn ức phần cho đến toàn số cho nhiều, cũng ví như bụi cát đều không bằng một phần công đức trì kinh.

Người đời mạt thế, luống biết thờ Phật, mà chẳng biết chỗ ráo rốt của Phật đều bởi tại kinh này. Bằng bỏ kinh này rồi bởi đâu mà đặng, cho nên mới nói như thế, đặng phân ra hơn kém.

Vua Lương Võ Đế cất chùa, bố thí, cúng Phật, trì trai, hỏi ông Đạt Ma Tổ sư: Có công đức chăng?

Đáp : Không.

Người đời sau không tỏ đặng ý ấy.

Ông Vi Sứ QuânThiều Châu  đem việc ấy mà hỏi Lục Tổ.

Đáp : Cất chùa, bố thí, cúng Phật, trì trai, ấy là tu phước, không thế đem phước ấy mà làm công đức. Công đức ở trong Pháp thân  chớ chẳng phải tại tu phước.

Lại nói: "Công đức ở trong tự tánh chẳng phải bố thí, cúng dường mà cầu đặng". Cho nên nói: Phước chẳng bằng công đức, bố thí chẳng kịp trì kinh là vậy.

Lý Văn Hội  giải: A tăng kỳ : vô số.

Cúng dường A tăng kỳ hằng hà sa  chư Phật, thí báu đầy cả đại thiên, bỏ thân mạng như vi trần, mà cái công đức ấy, cũng không bằng công đức của người trì kinh này, mà ngộ đặng chơn tánh một phần trăm ngàn muôn ức.

Ông Đạt Ma  đáp cùng vua Lương Võ Đế: Công đức cất chùa, tả kinh, cúng dường, bố thí chỉ đặng phước báu nhơn, thiên  mà thôi, chớ thiệt chẳng phải là công đức.

 

Xuyên Thiền sư giải: Công chẳng bỏ luống.

Tụng:

Cúng Phật ngàn muôn phước thiệt nhiều,

Đâu bằng giáo pháp giữ làm theo,

Mực đen giấy trắng trong kinh dạy,

Mở mắt mà xem hãy chớ nheo.

Nước dợn dợn,

Gió hiu hiu.

Một thuyền gã Tạ ([131]) tự tiêu diêu.

97.-ÂM:

Tu Bồ Đề! Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhơn, ư hậu mạt thế hữu thọ trì đọc tụng thử kinh, sở đắc công đức. Ngã nhược cụ thuyết giả, hoặc hữu nhơn văn tâm tức cuồng loạn, hồ nghi bất tín...

NGHĨA:

Tu Bồ Đề! Bằng có trai lành, gái tín nào, sau đời mạt pháp thọ trì đọc tụng kinh này, chỗ đặng công đức...Nếu ta nói cho hết, hoặc có người nghe, lòng bèn rối loạn, hồ nghi chẳng tin...

 

Giải : Tăng Nhược Nột giải: Hồ nghi; Hồ là con thú kêu là Giả can; tánh hay đa nghi. Mỗi khi lội qua sông thì vừa lóng tai vừa lội.

Bài trước tuy so sánh đặng rõ cái phước cho nhiều, nhưng cũng còn sơ lược; bằng nói thêm cho đủ, e thính giả hồ nghi, mà sanh lòng hoặc loạn.

  Lý Văn Hội giải: Sở đắc công đức v.v... cảnh giới tịnh diệu  sau khi tỏ ngộ; trước kia nói về sự ưa tiểu pháp, là thuyết pháp đặng hàng trụ bực Tiểu thừa, khiến cho tỏ ngộ, đến nay mà hãy còn chưa tin.

Bằng nói về pháp kiến tánh của bực Đại thừa, cho người đặng rõ thông thấu đáo, thì ắt sanh ra nhiều sự cuồng loạn không tin, luống khiến cho hồ nghi thêm nữa.

98.-ÂM:

Tu Bồ Đề! Đương tri thị kinh nghĩa, bất khả tư nghì quả báo diệc bất khả tư nghì.

NGHĨA:

Tu Bồ Đề! Phải biết nghĩa lý kinh này, không thế bàn nghĩ đặng và sự quả báo kết quả cũng không thế bàn nghĩ đặng.

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Cụ là đủ. Nếu ta nói cho đủ, cho đúng cái công đức, thì lòng của nhơn gian cuồng loạnhồ nghi mà chẳng tin, là bởi thiệt quá lớn, nên người rất kinh quái. Kinh quái lắm thì phải cuồng loạn. Còn không lắm, thì cũng hồ nghi mà không tin - Đương tri thị kinh  v.v... là nghĩa của kinh này không dùng tâm trí mà nghĩ đặng, không dùng lời nói mà bàn đặng. Bằng người theo đây mà tu hành, thì cái  quả báo há dùng trí nghĩ lời bàn đặng sao?

Phật thường nói công đức kinh này, đến đây lại xưng tụng hết sức, vậy có phải là nói luống đâu? Là bởi kinh này là cái gốc tỏ ngộ chơn tánh, siêu thoát luân hồi, thiệt là công đức không cùng không tột vậy.

Nhan Bính giải: A tăng kỳ : là bất khả số kiếp.

Phật ở trước đời Phật Nhiên Đăng đặng gặp vô số chư Phật, tất cả cúng dường thờ phụng, chớ hề bỏ qua. Bằng đời sau có người thọ trì đọc tụng kinh này, mà đặng cái công đức kiến tánh thì cái công đức cúng dường của ta khi trước chẳng bằng một phần trăm. Công đức kiến tánh có trăm ngàn muôn ức phần đến nỗi dùng pháp toán số thí dụso sánh cũng chẳng đặng.

Phật nói: "Ta nói cái công đức trì kinh, hoặc cũng có người nghe mà sanh lòng cuồng loạn, nghi hoặc chẳng tin", nhưng phải biết kinh này và quả báo, không thể nghĩ bàn đặng; nếu chẳng tin lời Phật, mà trở lại chê báng, thì ác quả đã nhiều, thế nào cũng phải mang ác báo.

Lý Văn Hội giải: Nghĩa là nghĩa Bát Nhã, còn Bát Nhã  là trí huệ - Quả báo là đặng cái công đức. Bởi trí huệ mà ngộ đặng Chơn tánh. Chư Phật ba đời lý cũng không khác. Cho nên cái nghĩa không thể nghĩ bàn đặng.

Tạ Linh Vận giải: Muôn hạnh thẫm sâu, nghĩa lại khó lường, thì cái quả mầu diệu của đạo Bồ đề  há lấy ý tứ gì mà suy nghĩ cho đặng?!

Xuyên Thiền sư  giải: Thảy thảy đều chơn mày nằm ngang trên con mắt.

Tụng:

Thuốc đắng đã tật,

Lời thật mích lòng.

Ấm lạnh tự mình biết,

Như cá hớp nước trong,

Chẳng cần chờ đến "Long Hoa hội",

Tự tánh đã từng thọ ký xong.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19684)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23947)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41200)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19675)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23970)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21741)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23289)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27488)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26538)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29300)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33165)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20178)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25750)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20901)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31283)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38534)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21411)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44233)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29802)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42163)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22121)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45716)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32096)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23940)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24374)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29237)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33895)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27662)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32112)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21053)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28836)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21553)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28037)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22052)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21413)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19483)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19456)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19816)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19227)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29159)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20606)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28270)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23634)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33159)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31827)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21362)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39603)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21538)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19362)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26360)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24804)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21739)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22364)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29121)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22545)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20458)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23499)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21226)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35281)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24537)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant