Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương một

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9897)
Chương một

KINH KIM CANG CHƯ GIA

NGŨ THẬP TAM GIA:

1. Bách Trượng Hải Thiền sư.

2. Bàng Uẩn Cư sĩ

3. Bảo Ninh Dõng Thiền sư.

4. Bửu Tích Như Lai.

5. Cổ Đức Thiền sư.

6. Châu Sử Khanh Chơn nhơn.

7. Chơn Tịnh Văn Thiền sư.

8. Đạt Ma Đại sư.

9. Đồng Quan Sát Thiền sư.

10. Hải Giác Nguyên Thiền sư

11. Huyền Tông Hoàng đế.

12. Huỳnh Nghiệt Vận Thiền sư.

13. Kỳ Thiền sư.

14. Kim Hải Quang Như Lai.

15. Kỉnh San Kiểu Thiền sư.

16. Khuê Phong Thiền sư.

17. Lâm Tế Đại sư.

18. Lý Văn Hội Cư sĩ.

19. Lục Tổ Đại sư.

20. Lưu Đẩu Đại sư.

21. Mã Tổ Đại sư.

22. Nam Tuyền Nguyện Thiền sư.

23. Ngũ Tổ Đại sư.

24. Nhan Bính Như Như Cư sĩ.

25. Nhựt Nguyệt Quang Như Lai.

26. Pháp Thường Mãn Như Lai.

27. Phó Đại sĩ.

28. Qui Tông Thiền sư.

29. Tạ Linh Vận.

30. Tăng Nhược Nột Thiền sư.

31. Tăng Liễu Tánh Vân Am Thiền sư.

32. Tăng Triệu Pháp sư.

33. Tăng Tử Vinh Phú Sa Thiền sư.

34. Tăng Vi Từ Am Thiền sư.

35. Tiêu Diêu Ông.

36. Tiên Du Ông.

37. Tổ Ấn Minh Thiền sư.

38. Tông Mật Thiền sư.

39. Tự Tại Lực Vương Như Lai.

40. Tứ Tổ Nhẫn Đại sư

41. Từ Thọ Thâm Thiền sư.

42. Thái Dương Huyền Thiền sư.

43. Thiên Thai Trí Nghĩa Đại sư.

44. Thông Vương Như Lai.

45. Trần Hùng Cư sĩ.

46. Triều Văn Nguyên Cư sĩ.

47. Trương Vô Tận Cư sĩ.

48. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.

49. Viên Ngộ Thiền sư.

50. Vĩnh Gia Đại sư.

51. Vô Danh Thị.

52. Vương Nhựt Hưu Cư sĩ.

53. Xuyên Thiền sư (Giả phủ).

 

*************


KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

ÂM :

 Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh.

NGHĨA :

 Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật.

 

Giải - Tiên Du Ông Tập Anh giải: Kim Cang  là chất cứng bén (thép) trong loại kim. Chất thép sanh trong loại kim dầu nhồi luyện cả trăm phen cũng chẳng hề hao kém. Dùng sức chắc bén ấy mới chặt đứt muôn vật đặng.

Năm loại kim, cũng đều gọi chung là Kim ([61]). Phàm nói riêng một tiếng kim tức là sắc. Kim Cang nói đây là, như gươm đao có thép bén, ví dụ với trí huệ, hay dứt tuyệt cả thảy tà kiến điên đảo của tham, sân, si.

Tiếng Phạm: Bát Nhã, Tàu dịch Trí Huệ ([62]) Tánh thể sáng suốt xét soi tự tại; cho nên nói: Bát Nhã.

Ba La Mật: Đáo bỉ ngạn là đến bờ kia (chỗ Phật). Muốn đến bờ kia phải dùng thuyền Bát Nhã.

Bờ này (chỗ chúng sanh) là cảnh của chúng sanh gây nghiệp chịu sự khổ sanh tử luân hồi; còn bờ kia là cảnh của chư Phật cùng Bồ Tát đã ráo rốt ([63]) siêu thoát thanh tịnh an vui. Phàm phu là bờ này. Phật đạo là bờ kia. Một niệm dữ là bờ này, một niệm lành là bờ kia.

Sáu đường ([64]) như biển khổ, không thuyền thì không thể qua. Phải dùng trí Bát Nhã cùng pháp "Lục độ" ([65]) mà làm thuyền, mới qua khỏi đặng.

Lại nữa, tục ngữ bên Thiên Trước: "Phàm việc chi đã làm đặng rồi, đều gọi là Ba La Mật".

Kinh: nghĩa là "Đường tắt". Kinh này là con đường tắt để học Phật.

Xung Ứng Chơn Nhơn, Châu Sử Khanh làm lời chơn tán ông Dương Á Phu có giải: Sắt là một vật sanh ở trong khoán, khí thành sắt, tánh cứng mà hình thể chẳng biến, dùng lửa thép ra, thì làm nên các món, cho nên Phật lấy Kim Cang thí dụ.

Lại nhơn dịp người anh của Ông (Xung Ứng) xem kinh Viên Giác, đưa cho coi mà nói: Cổ nhơn có nói rằng:

"Xanh xanh tre sậm, vốn thiệt Chơn như, "

"Mởn mởn hoa vàng há không Bát Nhã!".

Chơn như, tre sậm một loài, bởi không nhiễm (sắc, thinh, hương, vị).

Bát Nhã, hoa vàng một thể, vì chẳng chấp "kiến, văn, giác, tri".

Trần Hùng giải: Ba la mật có sáu pháp: Hoặc "Bố thí" hoặc "Trì giới", hoặc "Nhẫn nhục", hoặc "Tinh tấn", hoặc "Thiền định"  đều chiếm một phần trong  Lục độ. Duy có một pháp "Bát Nhã" hay sanh tám muôn bốn ngàn (84.000) "Trí huệ", thì sáu độ gồm đủ, muôn hạnh vẹn toàn. Cho nên Như Lai dùng cái đục Trí huệ xoi núi  nhơn ngã, dùng sức Trí huệ khai khoán "phiền não", dùng lửa Trí huệ thép nên vàng trong "Phật tánh".

Vả lại gieo căn lành, trước phải tụng Kinh, sau mới tỏ lý. Đặng sức bền chặt, tức là Kim Cang. Đủ Trí huệ lớn tức là Bát Nhã. Độ khỏi biển sanh tử, đến bờ "Bồ đề", tức là Ba la mật.

Ngũ Tổ Đại sư hằng khuyên kẻ Tăng người tục: "Chỉ nên trì "Kinh Kim Cang", tức đặng "kiến Tánh thành Phật".

Lục Tổ Đại sư, một đêm nghe Ngũ Tổ thuyết pháp, đến câu: "Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm" (sanh tâm không trụ chấp), vừa dứt lời liền tỏ ngộ.

Như thế mới là bực Thượng thừa đốn giáo  cho.

Nhan Bính giải : Duy có một quyển kinh này, chúng sanh sáu đường mỗi mỗi đều có đủ trong tánh. Bởi sau khi có thân rồi, vọng sanh sáu căn ([66]),sáu trần[67]), chôn lấp một điểm "Linh quang", trọn ngày mờ mờ, chẳng biết chẳng tỏ. Cho nên Phật ta mới mở lòng "Từ Bi", nguyện cứu vớt cả thảy chúng sanh, đồng qua khỏi biển khổ, đồng chứng đặng quả Bồ đề. (

Nên chi, Phật ở tại nước Xá Vệ thuyết kinh này, đại ý: Chỉ vì người mà phá mê, mở trói; bấy giờ liền tỏ thấy cái tự tánh.

Tự tánh đặng bền chặt, muôn kiếp chẳng hoại, cũng như cái tánh cứng chắc của loại kim vậy.

Lý Văn Hội giải: Kim Cang là vật chắc bén, hay phá nát muôn vật. Bát Nhã: Trí huệ, hay phá đặng cả thảy  phiền não, đổi thành diệu dụng.

Ba la mật: Đáo bỉ ngạn. Chẳng chấp các tướng là "bờ kia", bằng chấp các tướng là "bờ này".

 Lại nói : Lòng mê là "bờ này", lòng ngộ là "bờ kia".

Kinh"Đường", là con đường tắt để "kiến tánh".

ÂM :

 Dao Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập phụng chiếu dịch.

NGHĨA :

 Đời Dao Tần, Thầy Tam Tạng Pháp Sư, là Cưu Ma La Thập, vưng chiếu, phiên dịch.

 

Giải  : - Xét trong sử Tấn: "Cưu Ma La Thập" là người  Thiên Trước.

Khi xưa, vua nước  Cưu Tư  nghe danh cha Ngài, là Cưu Ma La Diêm, bèn thỉnh về làm Quốc sư, rồi ép gả em gái cho.

Lúc Ngài còn trong thai thì bà mẹ sáng suốt bội thường. Mà cũng trong lúc ấy, bà xuất gia. Ngài đến mười hai tuổi thì bà dắt qua xứ  Sa Lạc  mà ở.

Đời  Hậu Tần  (383 - 416) vua  Dao Hưng  rước Ngài về vườn  Tiêu Diêu  mà dịch kinh.

Sau Ngài hóa thân tại Trường An. Khi thiêu, xác và củi đều cháy tiêu hết, mà lưỡi Ngài vẫn còn.

Dịch là phiên dịch chữ Thiên Trước  ra chữ  Trung Quốc.

 

1.-ÂM :

 Như thị ngã văn :

NGHĨA :

 Ta nghe như vầy

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Thị là chỉ các chỗ nói trong kinh này.

Ngã: là người viết kinh này tự xưng, tức là A Nan.

Như thị ngã văn  là các chỗ nói trong kinh này tự ta nghe những lời của Phật nói.

Đệ tử (A Nan) thường hỏi Phật: "Đến sau viết kinh khởi đầu làm sao?".

Phật bảo: "Dùng "Như thị ngã văn" mà khởi đầu".

 Lý Văn Hội giải: Như thị ngã văn  là Như Lai đến ngày nhập "Niết Bàn", A Nan có hỏi Phật: "Sau khi Phật  diệt độ, cả thảy đầu bài kinh để chữ chi?".

Đáp: Trước để "Như thị ngã văn", sau chỉ rõ các chỗ. Cho nên ông Phó Đại Sĩ tụng:

 

Ở giữa Cụm Ta La, Là nơi Phật diệt độ.

A Nan ([68]) lúc bấy giờ, Bi thảm không qua đó.

Hỏi sẵn có Ưu Ba ([69]), Kinh, làm sau khởi thủ.

Rằng "Như thị ngã văn" Truyền bá hoài thiên cơ.

 

Bằng theo các bực đại Tông sư giải nghĩa, thì "Như" là cái tánh của chúng sanh, muôn khác ngàn sai, động tịnh không chừng, không ngang hàng đặng, không bằng bực đặng.

"Thị" là biệt danh cái tánh của chúng sanh. Lìa ra ngoài cái tánh, lại không có pháp chi khác nữa.

Lại nói: Pháp, chẳng phải không, gọi là Như. Đều là Phật Pháp gọi là "Thị".

Xuyên Thiền sư giải: Như thị, người xưa đạo kêu là "Như", nói Như thị là đã biến rồi.

Nói thử coi: Biến đổi đi đến chỗ nào?

Ôi! Chẳng đặng chạy đi bậy.

 Rốt lại nói chi vậy.

 Ngoài ngôn luận lửa không hề cháy!

Như như:

 Đài gương muôn tượng thảy đều thâu,

Vậy vậy:

 Nước sóng nguyên đồng tánh chất nhau.

 Gương nước lúc chưa vương gió bụi,

 Đất trời toàn thể hiện làu làu.

Lại nói :

Ngã  là "Tự tánh tự tại", chỉ cưỡng danh vậy thôi.

Thân không phải có ta,

Cũng chẳng phải không  ta,

Hai lẽ không ngần ngại,

Mới cho là thiệt ta.

Sạch sạch bóng,

Đỏ đỏ thắm.

Không phương rờ nắm.

 

Lại nữa :

Ta, ta...........................

Phân biệt Thánh hai cái khác xa.

Chẳng động hào ly huờn bổn tánh,

Tri âm tự có gió tòng, hòa.

Văn là lóng nghe.

Nghe không chấp có nghe.

Cũng chẳng chấp không nghe.

Chẳng "có chấp", "không chấp",

Mới cho là "thiệt nghe".

Lại nói: Rất kỵ nhứt, là nghe theo nó.

Lời tụng rằng:

Hạc kêu chín nội,

Vượn hót đầu ngàn;

Mây ùn gió cuốn,

Nước chạt giòng tràng.

Sương đượm màu thu khoe vẻ đẹp;

Nhạn inh ỏi giọng tiết trời hàn.

2.- ÂM :

Nhứt thời, Phật tại Xá Vệ quốc, Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên .

NGHĨA :

 Một thuở nọ, Phật ở nước Xá Vệ nơi nhà Tịnh xá của ông Cấp Cô Độc cất trong vườn cây ông Kỳ Đà .

 

Giải : Triệu Pháp Sư giải: Nhứt thời  là thuở Phật pháp "Bát Nhã".

 Lý Văn Hội giải: Nhứt thời  là khi Phật thuyết pháp hiệp giới lý đạo mà cảm với lòng người.

Phật là Giác. Giác trong tâm không các vọng niệm, giác ngoài cảnh chẳng nhiễm lục trần.

Lại nói: Phật là vị "Giáo chủ". Chẳng phải tướng mà hiện tướng, là "Ứng thân Phật". Tướng, mà chẳng phải tướng, là "Báo thân Phật" - Chẳng phải tướng, chẳng phải không tướng, là "Pháp thân Phật".

Tại : là chỗ ở.

Sớ Sao  giải: Phật, tiếng Phạm kêu: Bà Dà Bà cũng kêu Phật Đà.

Phật: là Giác. Trước giác cho mình, sau giác cho người (tự giác, giác tha), là bởi "giác tánh" đã viên mãn. Cả thảy các loại "hữu tình" đều có tánh giác ấy. Ngộ là Phật, mê là chúng sanh.

Trong Kinh có nói: "Nước  Xá Vệ  có một ông Trưởng giả, tên là  Tu Đạt Noa, thường bố thí cho kẻ nghèo hèn cô độc, cho nên người đời gọi ông là "Cấp Cô Độc Trưởng giả".

Lục Tổ giải: Xá Vệ : là tên một nước của vua  Ba Tư Nặc.

Kỳ :Kỳ Đà Thái tử, con vua  Ba Tư Nặc.

Thọ : là vườn cây của ông  Kỳ Đà  dưng cúng, cho nên nói: Kỳ thọ.

 Xuyên Thiền sư giải: Theo nhau mà đến.

 

Tụng:

Một một...........

 Hai, ba, năm, bảy, không cùng tột;

 Kiền khôn hỗn độn lúc chưa phân,

 Vốn đã nhứt sanh thông ráo rốt.

Lại nói :

Như người uống nước, lạnh nóng tự mình biết lấy.

Tụng:

Thì thì.......................

Trăng trong, gió mát thảy đều tùy.

Đào hồng, lý trắng, tường vi tía,

Hỏi thử chủ nhơn có hiểu gì?

Lại nói :

Không có diện mục gì, mà nói việc thị phi.

 

Tụng: 

Nhỏ kêu Tất Đạt;

Lớn hiệu  Thích Ca.

Tế độ các loại;

Thâu phục lũ tà,

Bằng nói Ngài là Phật,

Thế thì ta tức ma.

Dùng sáo tự nhiên không trổ lỗ,

Nhỏ to thổi điệu thái bình ca.

Lại nói :

Lục tặc đến, phải coi chừng đánh chận lại, đừng cho đi tuốt.

Tụng:

Ngồi thiền một nén hương;

Kinh nghĩa tụng hai hàng.

Thương bấy khách xe ngựa,

Bề ngoài luống nhộn nhàn.

 

3.- ÂM :

Dữ đại Tỳ Khưu chúng, thiên nhị bá ngũ thập nhơn cu.

NGHĨA :

Cùng một ngàn hai trăm năm mươi thầy đại Tỳ Khưu đều ở tại đó .

 

Giải : Tăng Tử Vinh dẫn trong bộ  Trí Độ Luận, quyển thứ ba có nói: khi "Như Lai sắp nhập  Niết Bàn, kêu  A Nan  mà dạy rằng: "Mười hai bộ kinh  ngươi phải truyền bá ra cho đời sau".

Lại dạy Ưu Ba Ly  rằng: "Cả thảy  Giới luật, ngươi nên thọ trì".  A Nan  nghe Phật dặn bảo, lòng rất lo rầu".

Khi ấy, Ưu Ba Ly  nói với  A Nan rằng: "Ông là người gìn giữ "Pháp Tạng" của Phật, phải bạch hỏi Phật những điều yếu lý về đời sau".

Ưu Ba Ly  cùng  A Nan  có đến hỏi Phật bốn điều:

1.- "Cả thảy trước đầu kinh nên để chữ chi?".

- "Cả thảy trước đầu kinh nên để chữ Như thị".

2.- "Lấy ai mà làm thầy?".

- "Lấy giới Ba la đề mộc xoa  làm Thầy cả của các ngươi".

3.- "Nương nơi đâu mà trụ?".

- "Đều nương theo pháp "Tứ Niệm" mà trụ".

Tứ niệm:

Một là : Quán tưởng  lòng chẳng sạch;

Hai là : Quán tưởng  chịu những sự khổ;

Ba là : Quán tưởng  Pháp tánh vốn không;

Bốn là: Quán tưởng  "Tâm" không có "ta".

 

4.- "Thầy Tỳ Khưu có tánh ác, làm sao mà ở chung?".

 - "Thầy Tỳ Khưu có tánh ác, thì dùng pháp "Phạm đàn" mà sửa trị".

Phạm đàn "Mặc tấn": là nín nhịn.

Thiệt như lời Huỳnh Lỗ Trực nói:

Muôn nói muôn nhằm, chẳng bằng một nín (mặc).

Trăm trận trăm hơn, chẳng bằng một nhịn (tấn).

Tấn  là kỉnh mà xa lánh.

Pháp này để xử thầy Tỳ Khưu có tánh ác.

 

Như Lai, khi dặn dò xong rồi, vào Đại thành  Cu Thi La, nơi hai cây  Ta Lathị hiện pháp  Niết Bàn. A Nan nghe Phật sắp nhập  Niết Bàn, trong lòng buồn rầu lo lắng nên chẳng đến trước Phật mà hỏi lại bốn điều đó nữa.

 Vương Nhựt Hưu giải: Tỳ Khưu: Khất sĩ. Trên xin pháp cùng chư Phật, đặng tỏ cái chơn tánh mình, dưới xin ăn của người thế, đặng cầu phước cho đời, cho nên nói: Khất sĩ.

Đại Tỳ Khưu :đắc đạo đã thâm, tức là bực Bồ Tát cùng A La Hán.

Cu :ở chung. Là nói Phật cùng một ngàn hai trăm năm mươi người ở chung trong vườn ông Cấp Cô Độc.

 Trần Hùng : Tỳ Khưu, tức đời nay kêu là Thầy tu.

Lý Văn Hội  giải: Tỳ Khưu, bỏ dữ làm lành là "Tiểu Tỳ Khưu", lành dữ đều bỏ là "Đại Tỳ Khưu". Bằng người tỏ thấu lý ấy, tức là chứng quả vị A La Hán. Phá đặng  lục tặc  (lục trần) là người trong bốn quả "Tiểu thừa".

Xuyên Thiền sư giải: Một tay vỗ chẳng nên kêu.

 

Tụng:

Nghiêm nghị đàng hoàng,

Muôn pháp chủ trương.

Băm hai tướng hảo?

Muôn ngàn chủng quang.

Thánh, phàm chiêm ngưỡng,

Ngoại đạo qui hàng.

Chớ rằng Phật Tổ không trông thấy,

Ở tại Kỳ Viên đại đạo tràng.

4.-ÂM :

Nhĩ thời, Thế Tôn thực thời chước([70]y trì bát.

NGHĨA :

Khi ấy, gần đến giờ ăn của đức Thế Tôn, Ngài bèn mặc y, mang bát.

 

Giải : Vương Nhựt Hưu  giải: Nhĩ thời :thuở ấy.

Phật là bực tôn trọng trong  ba cõi, nên xưng là  Thế Tôn.

Ba cõi  là: "Dục giới", "Sắc giới", "Vô Sắc giới".

 Lý Văn Hội giải: Nhĩ thời: là thuở Phật ra đời.

Thế Tôn: Trong ba cõi, bốn loài  không có trí huệ, phước đức nào sánh bì cho kịp. Thiệt là đáng tôn trọng của cả thảy thế gian.

Thực thời : là chánh lúc sắp sửa bữa ăn ngọ.

Chước y: là đắp cái y  Nhu hòa nhẫn nhục.

 Tăng Nhược Nột  giải: Trong Kinh "Tỳ La Tam Muội" có nói: "Buổi sáng là bữa ăn của chư Thiên; chánh giờ ngọbữa ăn của chư Phật; chiều và tối là bữa ăn của các dị loại cùng quỉ thần".

Nay nói Thực thời là chánh thức trước giờ ngọ, trong buổi đi xin ăn.

Sớ Sao  giải: Chước  là đắp cái y "Tăng già lê", tức là Đại y hai mươi lăm điều ([71]).

Trì bát  là bưng cái bát của Tứ Thiên Vương  dưng cúng.

Kinh Di Giáo  giải: Mặc đồ đáng hổ thẹn, đối với sự  trang nghiêm  là đúng bực nhứt.

5.- ÂM :

Nhập Xá Vệ đại thành khất thực.

NGHĨA :

Vào đại thành nước Xá Vệ xin ăn.

 

Giải : Tăng Nhược Nột  giải: Chùa ở ngoài thành, cho nên nói: Vào.

 Lý Văn Hội  giải: Khất thực  là muốn khiến các thầy Tỳ Khưu đời sau chẳng tích tụ tiền của châu báu.

6.- ÂM :

Ư kỳ thành, trung, thứ đệ khất dĩ.

NGHĨA :

Ở trong thành, cứ theo thứ lớp mà xin.

 

Giải - Tăng Nhược Nột  giải: Chẳng bỏ nghèo theo giàu không chê hèn tìm sang, lòng  Đại từ bình đẳng, không có chọn lựa, cho nên nói: Thứ lớp.

Lý Văn Hội giải: Thứ đệ  là lòng  từ bi  của Như Lai, chẳng lựa nghèo giàu, bình đẳng khắp độ.

7.-ÂM :

Huờn chí bổn xứ, phản tự cật ([72]) thâu y bát, tẩy túc dĩ.

NGHĨA :

Về đến chỗ ở; dùng cơm xong, đoạn cất y bát, rửa chơn rồi .

 

Giải : Vương Nhựt Hưu  giải: Đi xin ăn rồi trở về, cho nên nói: Về chỗ ở.

Ăn cơm xong, cất y bát là cất áo Ca sa cùng bình bát rồi sau mới rửa chơn, là bởi Phật đi chơn không (Không đi giày).

Lý Văn Hội  giải: Tẩy túc dĩ"Tịnh thân nghiệp".

8.- ÂM :

Phu tòa nhi tọa.

NGHĨA :

Lên pháp tọa mà ngồi .

 

Giải : Nhan Bính giải: Phu  là sắp đặt, sắp đặt "Pháp tọa" mà ngồi.

Trí Giả Thiền sư giải :

Tụng: 

Pháp, Ứng, Hóa ba thân,

Chẳng ăn uống tự nhiên.

Thường từ bi, bác ái,

Vì lợi ích Nhơn, Thiên.

Cất áo ngơi lao lự,

Rửa chơn sạch bụi duyên.

Lý "Tam không" muốn chứng,

Ngồi kiết già tham thiền.

 

Sớ Sao  giải: "Tam không" là ba thể luân chuyển đều không.

Người thí, người thọ thí và vật thí là ba cái thể luân chuyển.

Người thí hồi tưởng cái chơn như bổn thể vốn không, chẳng có một vật chi, cho nên nói: Lý không.

Người thọ trí hồi tưởng cái sắc thân không phải chơn tướng, cái phương pháp không tên lâu dài; thân còn chẳng có, vật đâu mà thọ lãnh; cho nên nói: Thọ không.

Kẻ thí, người thọ thí đã là không - Hai bên đều không lòng vọng thí, vật thí cũng tự không, cho nên nói: Vật không.

Ấy là: Tam luân thể không.

Lý Văn Hội  giải: Phu tọa nhi tọa  là cả thảy pháp đều không.

Xuyên Thiền Sư giải: Cho rành nó.

 

Tụng: 

Ăn cơm xong xả, rửa chơn rồi,

Nghiêm nghị ra nói Pháp tọa ngồi.

Có biết những văn sau đó tả?

Đất bằng gây nổi trận phong lôi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26688)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28265)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29429)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33328)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21791)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30688)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31322)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37201)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32340)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27168)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20643)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22268)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 24017)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22882)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23240)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30451)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30122)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23145)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22348)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21804)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 28259)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19294)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20187)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30952)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41555)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32767)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19143)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 34048)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24983)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23710)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25347)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27798)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 25043)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23853)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58779)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23245)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20909)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28215)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28948)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19238)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24632)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21457)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23888)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28641)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29456)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17667)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 31055)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25362)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18982)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 20162)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23968)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 19055)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20181)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20073)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24864)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19436)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22606)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61869)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 31162)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 22132)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant