Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương hai mươi

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9538)
Chương hai mươi

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG HAI MƯƠI

124.ÂM:

"Tu Bồ Đề: Ư ý vân hà? Phật, khả dĩ cụ túc sắc thân kiến phủ?".- "Phất dã Thế Tôn. Như Lai bất ưng dĩ cụ túc sắc thân kiến.

NGHĨA:

"Này Tu Bồ Đề? Ý ông thế nào? Có nên dùng sắc thân cụ túc mà cho là Phật chăng?".- "Bạch đức Thế Tôn! Không. Chẳng nên dùng sắc thân cụ túc mà cho là Như Lai đặng.

 

Giải : Trần Hùng giải: Sắc thân  là 32 tướng. Cụ túc  là không thiếu kém - Có đủ 32 hạnh nên mới có tướng cụ túc. 32 hạnh vốn sẵn có trong pháp thân, nếu muốn rõ pháp thân  Như Lai  thì tự biết bổn tâm, tự thấy bổn tánh là đủ; há phải thấy sắc thân cụ túc nơi ngoài hay sao?

125.ÂM:

Hà dĩ cố! - Như Lai thuyết: Cụ túc sắc thân, tức phi cụ túc sắc thân, thị danh cụ túc sắc thân".

NGHĨA:

Bởi cớ sao? - Như Lai nói sắc thân cụ túc, nhưng chẳng phải sắc thân cụ túc, chỉ cưỡng danh là sắc thân cụ túc".

 

Giải : Trần Hùng giải: Kinh Bảo Đàn  có nói: "Da thịt là sắc thân".

Kinh  Hoa Nghiêm có nói: "Sắc thân chẳng phải Phật".

Xem như thế thì biết: nhục thân không có  Như Lai, nhưng chẳng biết có  Như Lai  sống ở nơi trong; sắc thân chẳng phải pháp thân, nhưng chẳng biết có sắc thân tốt đẹp ở nơi trong.

Lại nói: Diệu sắc thân  trong sạch,

 Oai thần lực hiện bày.

Nói là diệu sắc thân, thì hiện ra cả thảy sắc thân tam muội, ấy là  Pháp thân Như Lai; vậy thì đủ biết là chẳng phải cụ túc sắc thân - Chẳng phải cụ túc sắc thân mà cưỡng danh là cụ túc sắc thân đó, là bởi đặng cái sở dĩ cụ túc sắc thân mà thôi.

126.ÂM:

"Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? - Như Lai khả dĩ cụ túc chư tướng kiến phủ?".- "Phất dã, Thế Tôn! Như Lai bất ưng dĩ cụ túc chư tướng kiến. Hà dĩ cố? - Như Lai thuyết chư tướng cụ túc, tức phi cụ túc, thị danh cụ túc".

NGHĨA:

Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Có nên dùng các tướng cụ túc mà cho là Như Lai chăng?".- "Bạch đức Thế Tôn? Không. Chẳng nên dùng các tướng cụ túc, mà cho là Như Lai đặng.

 Bởi cớ sao ? Bởi Như Lai nói các tướng cụ túc, nhưng chẳng phải cụ túc, chỉ cưỡng danh là các tướng cụ túc".

 

Giải : Trần Hùng  giải: Kinh Lăng Già có nói: "Như xứ sở, hình tượng, sắc tướng, các thứ ấy đều kêu là tướng". Nói các tướng đây, là cả thảy những tướng biến hiện thần thông chẳng những là 32 tướng mà thôi.

Như Lai lìa sắc lìa tướng, dùng tịnh hạnh thì cụ túc 32 tướng, dùng trí huệ thì cụ túc tám muôn bốn ngàn, cụ túc pháp  Tam minh, Lục thần thông, Bát giải thoát. Cụ túc này tức là chẳng phải cụ túc của các tướng. Cụ túc này tức là trái, còn cụ túc của các tướng tức là hoa; hễ trái đã đậu rồi thì hoa sẽ rụng. Vậy nên mới có các thứ cụ túc.

Nhan Bính  giải: Phật  là giác. Giác tánh ví như hư không. Chẳng nên dùng cụ túc sắc thân mà thấy, duy có hạng người kiến tánh mới biết là chẳng phải sắc thân, ví cũng như  vô ngã  của Đức  Khổng Phu Tử và  Tọa Vong ([138]) của ông Nhan Hồi  vậy.

Tự tánh Như Lai không nên dùng cụ túc các tướng mà thấy; tánh đã không có chi mà đặng, thì làm sao mà có các tướng! Cho nên mới dùng câu "chẳng phải" mà thuyết phá.

Vương Nhựt Hưu giải: Bài này đồng nghĩa với những bài trong phần thứ 5 và 15, đến đây còn lập lại nữa là vì những thính giả mới đến sau.

Lý Văn Hội  giải : Lòng đã vắng lặng rỗng rang thanh tịnh, đâu có sắc thân, cùng các tướng chi mà đặng. Người phàm, nếu chẳng chấp "có" thì lạc vào không, có hai cái  tà kiến: đoạn thường ấy.

Quán không chi chẳng phải là thấy sắc? Quán sắc chi chẳng phải là đều không? - Vậy thì cụ túc Sắc thân cụ túc các tướng đều chẳng phải là cụ túc Sắc, không như một, "không, có", vốn đồng, mới là quán đặng: không thân mà thấy có cả thảy thân, không tướng mà thấy có cả thảy tướng. Vậy mới gọi là sắc thân cụ túc, chư tướng cụ túc.

Ông Tăng hỏi ông Triệu Châu: Con chó có tánh Phật chăng?

Đáp : Không.

Hỏi : Xuẩn động hàm linh giai hữu Phật tánh (bò, bay, máy, cựa đều có tánh Phật), bởi sao con chó không có tánh Phật ?

Đáp: Bởi nó có nghiệp thức.

Vả lại những người có nghiệp thức, mỗi mỗi đều chấp có, khởi các vọng tưởng, thì gọi là  điên đảo tri kiến; còn mỗi mỗi đều lạc vào không, không chỗ tỏ ngộ thì gọi là  đoạn diệt tri kiến. Hạng người có  túc nghiệp  căn lành, không có hai cái bệnh điên đảo, đoạn diệt , rõ thấu các lý "không" thì gọi là chánh chơn tri kiến . Bằng tỏ cái lý ấy, tùy thời mặc áo ăn cơm, trưởng dưỡng Thánh thai, tự tại tiêu diêu rồi, còn có sự gì nữa?!

Tứ Tổ bảo ông Ngưu Đầu Thiền sư: "Trăm ngàn diệu môn, đồng về trong phương thốn, hà sa công đức, gốc ở nơi tâm nguyện; cả thảy  không môn, cả thảy huệ môn, cả thảy hạnh môn  thảy đều cụ túc. Thần thông diệu dụng, chỉ tại lòng ngươi nghiệp chướng phiền não, bổn lai vắng lặng; cả thảy quả báo tánh tướng đều bình đẳng. Đại đạo rỗng rang tuyệt dứt tư lự, cái pháp như thế không thiếu không dư, với Phật không khác, không còn pháp chi ngoài nữa.

Chỉ tại khiến cho lòng tự tại, đừng cưu vọng tưởng cũng chẳng vui mừng, không khởi tham, sân, ưu, lự, lộng lộng không ngăn ngại, tự ý tung hoành; chẳng làm các điều lành, không tạo những nghiệp dữ, đi, đứng, nằm, ngồi, đối với sự thấy là duyên, đều là sự diệu dụng của Phật cả".

Tổ Ấn Minh Thiền sư giải:

Tụng:

 

Trâu nước dầu nuôi dễ mấy phần,

Tự do đi đứng, cũng nguyên nhân.

Vân sơn cảnh tịnh nhàn trưa sớm.

Hán mặc Hán, Tần thây mặc Tần.

 

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng:

 

Ba mươi hai hảo tùy,

Cùng tám chục hình chưởng.

Nguyên một thể lý chơn,

Ứng muôn loài vật tượng.

Sắc, tâm thảy phải trừ,

Nhơn, pháp đều không mượn.

Chứng đặng quả Bồ đề,

Cũng bởi nơi lìa tướng.

 

Xuyên Thiền sư giải: Pháp nước chẳng lọt cây kim việc thông thương xe ngựa.

Tụng:

 

Người tua ngước mặt ngó lên không,

Trồng long bao la chẳng ảnh tông.

Bằng dụng ít nhiều công phản chiếu,

Bổn lai hẳn gặp ở nơi trong.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12528)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14115)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10858)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10528)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11202)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12008)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13166)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13660)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33679)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11344)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12937)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13067)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11642)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17905)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11452)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11870)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11519)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18987)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12562)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11351)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13156)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15787)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11830)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11706)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12782)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12641)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13978)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13005)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12958)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13305)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12783)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12715)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11762)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11742)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12346)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12394)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19834)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11975)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11999)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16895)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12681)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15070)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16130)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12897)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12250)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11926)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11933)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13164)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16516)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13237)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12504)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11832)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19870)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11168)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11268)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10408)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11104)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10977)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10043)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11759)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant