Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

8. Chương Thứ Tám

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 12574)
8. Chương Thứ Tám
TỊNH ĐỘ GIÁO KHÁI LUẬN

Nguyên tác Nhật ngữ: Vọng Nguyệt Tín Hanh

 Hán dịch: Ấn Hải - Việt dịch: Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ


Chương thứ tám

Thích Tôn xuất hiện tại Diêm-phù và luận về Ta-bà tức Tịnh độ

Tiết thứ nhất

Thích Tôn thành Phậtuế độ

Từ giáo lí thanh tịnh cõi nước Phật mà nói, tất cả bồ-tát ở nhân vị đều phát đại nguyện làm thanh tịnh cõi Phật thì phải tu sáu pháp ba-la-mật trang nghiêm cõi nước Phật đến khi thành Phật; cho nên thế giới chư Phật xuất hiện, đương nhiên là Tịnh độ. Vậy mà, Đức Thích Tôn lại xuất hiện tại Diêm-phù-đề (Jambudvīpa) thuộc uế độ, điều này phát sanh mâu thuẫn với giáo lí cõi nước Phật thanh tịnh. Trong kinh điển Đại thừa có lời giải thích liên quan đến phương diện này, cũng là khai thác quan điểm về Tịnh độ với một bộ mặt hoàn toàn mới.

Theo kinh Đại bát niết-bàn quyển 24 ghi: Bồ-tát đều tu mười việc để làm thanh tịnh cõi nước Phật. Bồ-tát Cao Quí Đức Vương hỏi:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Ngài chỉ tu chín việc mà không tu việc thanh tịnh cõi nước Phật?

Đức Phật đáp:

- Này Cao Quí Đức Vương! Thuở xưa Ta cũng thường tu đủ mười việc này, tất cả bồ-tát và chư Phật đều tu mười việc này, ông đừng nói chư Phật xuất hiệnthế giới chẳng thanh tịnh.

Đức Phật còn nói: “Tịnh độ của Thích Tôn tên là Vô Thắng, ở phương tây cách thế giới Ta-bà này cách bốn mươi hai Hằng hà sa cõi Phật”.

Đức Phật Thích-ca xuất hiện ở Diêm-phù là hóa thân thị hiện phương tiện độ sanh, hóa thân Ngài xuất hiệnuế độ, báo thân ứng với nhân hạnh quá khứ thì trụ ở Tịnh độ thanh tịnh trang nghiêm. Đây là hạnh nguyện của tất cả bồ-tát đều phát khởi để làm thanh tịnh cõi nước Phật.

Nhưng trong kinh Bi hoa ghi: “Tất cả bồ-tát không nhất định đều nguyện thành PhậtTịnh độ, có vị cầu thành PhậtTịnh độ, nhưng cũng có vị cầu thành Phậtuế độ, theo ý nguyện tự do của bồ-tát”. Chí nguyện thành PhậtTịnh độ khi còn nhân vị, bắt đầu từ Phật A-di-đà, Quán Âm, Thế Chí, Văn-thù, A-súc v.v...Chí nguyện thành Phậtuế độ, từ bảy vị Phật quá khứ và nghìn Đức Phật ở kiếp Hiền hiện tại; trong đó, Thích Tôn không sợ đời ác ngũ trược[1], phát năm trăm đại nguyện cứu độ chúng sanh bị phiền não sâu nặng là chí nguyện của Ngài.

Bồ-tát cầu ở Tịnh độ, nguyện thọ mạng vô lượng; nếu bồ-tát có chí nguyện, thiện tâm điều phục mọi người thanh tịnh, ở Tịnh độ làm Phật sự, nhưng không chiếu cố đến chúng sanh bị phiền não sâu nặng thì bị gọi là bồ-tát giải đãi, là trái với bản nguyện của Thích Tôn thành Phậtuế độ. Bồ-tát tự nguyện thọ mạng ngắn ngủi, đem lòng từ bi sâu sắc giáo hóa những người xấu ác; đây gọi là bồ-tát tinh tiến, là nhấn mạnh thành Phậtuế độ được mọi người tôn trọng hơn thành PhậtTịnh độ.

Trong phẩm Pháp diệt tận, kinh Đại phương đẳng đại tập quyển 56 ghi: “Đức Phật Thích-ca Mâu-ni phát nguyện tối thắng, xả bỏ cõi nước thanh tịnh, thành Chính Giácthế giới ngũ trược nhiều đau khổ”. Đức Phật dùng sức nhân duyên đại từ bi xả bỏ tất cả cõi nước thanh tịnh trong mười phương, vì chúng sanh ác nghiệp bất thiện đã thành thục nên Ngài xuất hiệnthế giới ngũ trược nhiều đau khổ để thành tựu Vô thượng bồ-đề. Kinh Quán Thế Âm bồ-tát thọ kí cũng ghi giống như kinh này.

Bởi vì, giáo lí thanh tịnh cõi nước Phật không phải chuẩn mực cho tất cả bồ-tát thành Phật, người nặng tâm đại bi chọn thế giới ngũ trược nhiều đau khổ để thành Phật cứu giúp chúng sanh bị phiền não sâu nặng; ý kiến này ngược lại với chủ trương cõi Phật thanh tịnh. Nhưng trong đó, lên án bồ-tát thành PhậtTịnh độ là bồ-tát giải đãi, cũng có thể nói là chưa nghiên cứugiáo lí của Tịnh độ, chúng ta không thể không nói cách nói này còn thiếu tính thỏa đáng. Nếu bồ-tát ở cõi Phật thanh tịnh mà không phát nguyện làm thanh tịnh cõi Phật thì làm sao tịnh hóa thế giới ngũ trược nhiều đau khổ để kiến tạo cõi Phật? Cho nên bồ-tát nguyện thành PhậtTịnh độ cũng không bao giờ xả bỏ chúng sanh bị phiền não sâu nặng.

 

Tiết thứ hai

Thuyết tâm Tịnh độ tịnh của kinh Duy-ma

Kinh Duy-makinh Pháp hoa đều cho rằng Ta-bà tức là Tịnh độ. Kẻ phàm phu ngu si trong tâm bất tịnh nên thấy cõi này là bất tịnh. Nhưng lấy tri kiến của Như Lai mà nhìn thì chủ trương uế độ này tức là Tịnh độ trang nghiêm thanh tịnh. Như trước đã nói, trong kinh này ghi chúng ta thấy được Phật Thích-ca ở Diêm-phù-đề tức là thấy báo thân chân thật của Ngài, là cùng một ý. Đây là cách nhìn thân và cõi của Đức Phật theo quan điểm thật tướng luận.

Trước tiên nêu ra quan điểm của kinh Duy-ma trong phẩm Phật quốc của kinh này, quyển thượng, ghi Đức Phật bảo trưởng giả tử Bảo Tích: “Tùy chúng sanh đáng được điều phục mà chọn lấy cõi Phật v.v...trực tâmTịnh độ của bồ-tát, khi bồ-tát thành Phật, chúng sanh không dua nịnh thì sanh về cõi nước của Ngài. Thâm tâmTịnh độ của bồ-tát, khi bồ-tát thành Phật, chúng sanh đầy đủ công đức thì sanh về cõi nước của Ngài v.v...Bồ-tát nếu muốn được Tịnh độ thì phải thanh tịnh tâm mình, tâm bồ-tát thanh tịnh thì cõi nước thanh tịnh”.

Lúc đó, tôn giả Xá-lợi-phất nghe Đức Phật nói như thế liền nghi ngờ, suy nghĩ: “Nếu tâm bồ-tát thanh tịnh thì cõi nước Phật thanh tịnh. Vậy khi Thế Tôn hành đạo bồ-tát, lẽ nào tâm Ngài chẳng thanh tịnh, nay cõi này vì sao chẳng thanh tịnh?”. Biết được tâm nghi ngờ của Xá-lợi-phất, Đức Phật dạy: “Này Xá-lợi-phất! Mặt trời, mặt trăng luôn chiếu ánh sáng, nhưng người mù không thể thấy được; đây là lỗi của người mù chứ không phải lỗi của mặt trời, mặt trăng. Cũng thế, vì tội nghiệp của chúng sanh nặng nề nên không thấy được cõi nước trang nghiêm thanh tịnh của Như Lai, chẳng phải lỗi của Như Lai”.

Nói xong, Đức Phật dùng ngón chân ấn xuống đất, lập tức tam thiên đại thiên thế giới hiện ra trăm nghìn thứ châu báu trang nghiêm xinh đẹp giống như cõi nước vô lượng công đức trang nghiêm của Đức Phật Bảo Trang Nghiêm. Tất cả đại chúng đều tự thấy mình ngồi trên tòa hoa sen báu, ai nấy đều ca ngợi việc chưa từng thấy. Khi đó, Đức Phật dạy: “Này Xá-lợi-phất! Cõi nước Phật của Ta thường thanh tịnh như thế, vì muốn độ chúng sanh thấp kém nên Ta thị hiện cõi chẳng thanh tịnh, có nhiều nhơ uế”.

Đoạn văn trên đã nói đại khái về quan điểm của kinh Duy-ma đối với Tịnh độ.

Theo thuyết tâm thanh tịnh thì cõi nước cũng được thanh tịnh này thì đồng thời cũng nói trụ xứ của Như LaiTịnh độ trang nghiêm thanh tịnh. Chúng sanh đang ở trong tội nghiệp bất tịnh nên không thấy được cõi Phật thanh tịnh, giống như người mù không thấy được ánh sáng của mặt trời, mặt trăng. Kinh này lấy tôn giả Xá-lợi-phất làm đối tượng, đề cử tôn giả làm đại biểu cho kiến giải của chúng thanh văn, tức là biểu thị người Tiểu thừa không tin giáo lí cõi nước Phật thanh tịnh. Nếu thân, khẩu, ý của bồ-tát thanh tịnh thì cõi Phật trang nghiêm, cho nên hiển thị việc Thích Tôn thành Phậtuế độ là để giải tỏa nghi ngờ cho người Tiểu thừa. Nay còn khai thị tịnh, uế không hai cho họ hiểu. Người nào còn thấy Tịnh độuế độ sai khác là tâm họ còn chấp trước cao thấp. Nếu y theo trí tuệ của Đức Phật quán sát thì uế độ tức là Tịnh độ, đó là nói theo lập trường thật tướng luận của Đại thừa.

Lại nữa, trong kinh này ghi tâm tịnh tức là Tịnh độ. Tịnh độ là bồ-tát tự thanh tịnh tâm mình, rồi giáo hóa người khác để họ thanh tịnh tâm họ, y theo ý này được gọi là tịnh hóa. Kinh này cùng với ý chỉ của phẩm Kiến lập, kinh Phóng quang bát-nhã đã nói ở đoạn trước cũng tương đồng. Đời sau, người học Thiền tôngTrung Quốc lấy sự chủ quan để giải thích tâm này, ngoài tâm mình ra không có Tịnh độ nào khác, quả thật là thuyết không thỏa đáng.

 

Tiết thứ ba

Tịnh độ Linh sơn của kinh Pháp Hoa

Trong kinh Pháp hoa lấy núi Linh Thứu làm nơi để nói kinh Pháp hoa, là Tịnh độ chân thật của Như Lai. Trong kinh này ghi: “Thế giới bị lửa thiêu đốt dữ dội, Tịnh độ của Như Lai vẫn an ổn”. Phẩm Như Lai thọ lượng kinh này, quyển 5, kệ nói:

Bởi vì độ chúng sanh

Phật thị hiện Niết-bàn

Nhưng thật không diệt độ

Thường thuyết pháp ở đây.

Chúng thấy Ta diệt độ

Rộng cúng dường xá-lợi

Ai nấy đều luyến mộ

Mà sanh lòng khát ngưỡng.

Chúng sanh đã tin phục

Ý chân thật dịu dàng

Một lòng muốn thấy Phật

Chẳng tiếc thân mạng mình.

Khi Ta và chúng Tăng

Ra khỏi núi Linh Thứu

Ta nói với chúng sanh

Thường ở đây không diệt.

Cho đến vô số kiếp

Thường ở núi Linh Thứu

Và ở các nơi khác

Chúng sanh thấy tận kiếp

Bị lửa dữ thiêu đốt

Cõi Ta đây an ổn

Trời, người thường đông đúc

Vườn rừng, các lầu gác

Nhiều loại báu trang nghiêm

Cây báu nhiều hoa trái

Chư thiên đánh trống trời

Thường trỗi các kĩ nhạc

Rải hoa mạn-đà-la

Cúng Phậtđại chúng.

Kinh này ghi, tám mươi tuổi Như Lai nhập diệtphương tiện thị hiện, thật sự không có diệt độ; trải qua a-tăng-kì kiếp, Như Lai vẫn thường trú ở núi Linh Thứu thuyết pháp không ngừng. Chúng sanhthế gian thấy kiếp tận, lửa bốc cháy dữ dội thiêu sạch thế giới Ta-bà. Đức Phật vẫn bình an ở núi Linh Thứu, cho dù bên ngoài tai họa lửa dữ, nhưng vườn rừng và các lầu gác cao vót vẫn như cũ, trời, người đông đúc trỗi các thứ nhạc trời.

Trong phẩm Như Lai thọ lượng, kinh Kim quang minh tối thắng vương quyển 1 ghi: “Ta thường ở Linh sơn thuyết giảng kinh báu này, vì thành tựu chúng sanh nên thị hiện Bát niết-bàn”.

Lại nữa, trong phẩm Như Lai bất tư nghị tính, hội Bồ-tát tạng, kinh Đại bảo tích quyển 37 ghi: “Cho dù thế giới này bị thiêu cháy sạch, Như Lai ở trong đó, hoặc kinh hành, hay đứng, nằm, ngồi; nơi đó tự nhiên sanh ra nước tám công đức”.

Luận Đại trí độ quyển 3 dẫn chứng kinh Phú-lâu-na Di-đế-lệ-da-ni tử ghi: “Đức Phật dạy Phú-lâu-na: ‘Nếu tai họa đến, tam thiên đại thiên thế giới bị lửa thiêu cháy sạch thì Ta vẫn thường trụ ở núi Linh Thứu này. Tất cả chúng sanhphiền não trói buộc nên không thấy được công đức của Phật, cho nên không thấy Ta’ ”. Cũng giống như các thuyết ở trên, núi Linh Thứu là nơi vĩnh cửu của Đức Phật.

Diệu pháp liên hoa kinh ưu-bà-đề-xá của ngài Thế Thân giải thích đoạn văn này: “Lửa dữ không thể hủy hoại Tịnh độ chân thật của báo thân Như Lai, vì thuộc về đệ nhất nghĩa đế”. Các pháp tục đế thuộc về hiện tượng thì khó thoát khỏi sự phá diệt, Tịnh độ chân thật của Như Lai vượt thoát thế gian, thuộc về đệ nhất nghĩa đế; do đó, chân thân bất diệt là sự tồn tại vĩnh viễn.

 

Tiết thứ tư

Luận về Ta-bà tức Tịnh độ

Trong kinh Duy-ma ghi: “Muốn thấy được Tịnh độ thì phải tịnh tâm mình”. Người tâm tịnh thì thấy nơi nào cũng là Tịnh độ. Đức Phật biến hiện cảnh Tịnh độ nhất thời để chỉ cho tôn giả Xá-lợi-phất và mọi người nhìn thấy. Nhưng nay kinh Pháp hoa đặc biệt chỉ định núi Linh Thứu, lại là trụ xứ vĩnh viễn của Như Lai, cách nói của hai kinh có chỗ bất đồng. Vì vậy, xưa nay phần nhiều cho rằng Tịnh độ theo kinh Duy-mahóa độ biến hiện nhất thời; còn Tịnh độ theo kinh Pháp hoabáo độ chân thật của Như Lai, nhưng cách nói này chưa thỏa đáng. Trong kinh Pháp hoa cũng lấy tâm chính trực, nhu hòa mới thấy được chân thân bất diệt của Như Lai.

Lại nữa, trong kinh Phú-lâu-na Di-đế-lệ-da-ni tử ghi: “Chúng sanh bị phiền não trói buộc, cho nên không thấy được thân Như Lai trụ ở Linh Thứu”.

Trong kinh Duy-ma ghi: “Vì chúng sanhtội lỗi nên không thấy được cõi nước nghiêm tịnh của Như Lai”, chính là đồng với thuyết này. Nhưng người tâm tịnh thì mới có thể thấy được Tịnh độ. Lại từ tri kiến thanh tịnh của Như Lai mà nói thì cõi này khắp nơi đều là Tịnh độ. Trong kinh Duy-ma ghi: “Cõi nước của Ta thường thanh tịnh như vậy”, tức là hiển thị cõi này là trụ xứ vĩnh viễn của Như Lai, cùng với thuyết Như Lai thường ở núi Linh Thứu của kinh Pháp hoa không có gì khác nhau. Đặc biệt chỉ núi Linh Thứu là vì núi này là nơi diễn ra pháp hội của kinh Pháp hoa. Trong kinh này nói có núi Linh Thứu và các nơi khác thì có thể thấy ý nói không phải chỉ một nơi. Vì thế, hai kinh Pháp hoaDuy-ma nói cùng một ý , đều theo lập trường khảo sát thân và độ của Phật từ thật tướng luận, tức là đối với giáo lí duyên khởi luận về cõi Phật thanh tịnh có sự khai thác lại ở một lĩnh vực rộng lớn về tân Tịnh độ.

----------------------------

[1] Ngũ trược 五濁 (S: Pañca kaṣāyāḥ): Năm thứ cặn đục khởi lên trong Kiếp giảm. Đó là: Kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trượcmạng trược.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19677)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23940)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41180)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19662)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23959)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21737)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23282)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27478)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26524)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29290)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33154)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20171)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25734)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20887)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31264)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38521)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21402)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44214)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29791)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42142)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22114)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45700)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32082)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23937)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24355)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29224)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33878)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27655)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32098)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21037)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28828)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21539)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28003)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22047)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21410)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19476)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19444)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19807)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19212)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29130)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20594)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28260)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23625)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33145)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31816)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21354)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39592)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21529)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19357)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26334)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24793)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21729)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22355)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29114)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22539)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20453)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23477)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21225)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35261)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24535)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant