Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

18. Chương Thứ Mười Tám

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 12634)
18. Chương Thứ Mười Tám
TỊNH ĐỘ GIÁO KHÁI LUẬN

Nguyên tác Nhật ngữ: Vọng Nguyệt Tín Hanh

 Hán dịch: Ấn Hải - Việt dịch: Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ

Chương thứ mười tám

Thuyết một niệm vãng sanhtư tưởng bản giác của tông Thiên Thai

Tiết thứ nhất

Phái chủ trương an tâm lãnh giải

Chủ trương một niệm vãng sanh phản đối nhiều niệm tương tục, chuyên lấy cổ xúy an tâm lãnh giải làm chủ yếu, gồm có các ngài như Thành Giác Phòng Hạnh Tây, Chứng Không phái Tây Sơn và Thân Loan v.v…Trong đó, ngài Hạnh Tây đề xướng nghĩa một niệm sớm nhất. Quan điểm của các ngài Chứng Không và ngài Thân Loan bị ngài Hạnh Tây đánh bại cũng chẳng ít. Nghĩa một niệm vãng sanh vốn là tư tưởng một tiếng niệm Phật có thể vãng sanh, vì nhiều niệm tương tụctự lực tu hành; cho nên bị người tu theo bản nguyện tha lực bài xích, đả phá, đưa đến yêu cầu phải nói rõ nội dung tín tâm tha lực, thậm chí đề xướng thuyết an tâm lãnh giải.

Niệm Phật danh nghĩa tập quyển hạ của ngài Thánh Quang nói: “Có người lập nghĩa một niệm, chỉ biết nói môn an tâm mà không chịu niệm Phật vãng sanh, uổng công giải nói niệm Phật”.

Duy tín sao của ngài Thánh Giác nói: “Đường lối vãng sanh Tịnh độ trước tiêntín tâm, nhấn mạnh tín tâm quyết định vãng sanh, không chú trọng xưng niệm không coi trọng số lần, không tin nguyện lực của Đức Phật là sâu rộng”.

Lại nữa, Tuyển trạch quyết yếu của ngài Tín Tịch ghi: “Có một phái học giả đặt vấn nạn để phá hoại Tuyển trạch tập. Tập này nói rõ về phạm vi của khởi hạnh, nhưng chưa thuật rõ pháp môn an tâm”. Tức là chỉ chủ trương của ngài Hạnh Tây.

 

Tiết thứ hai

Nghĩa một niệm của ngài Hạnh Tây

Nay nói về nghĩa một niệm của ngài Hạnh Tây, ngài cho rằng miệng xưng một tiếng danh hiệu Phật không phải một niệm mà lắng nghe nguyện lực của Phật trí rồi lãnh giải thì mới được gọi là một niệm. Khi tâm sanh khởi lãnh giải một niệm này thì quyết định được vãng sanh, tức là dựa theo kinh Vô Lượng Thọ quyển hạ nói: “Nếu người được nghe danh hiệu Phật A-di-đà liền hớn hở vui mừng, cho đến một niệm thì người này được lợi ích rất nhiều”. Đó là đầy đủ công đức vô thượng, chỉ nhờ một niệm mà được lợi ích lớn lao của công đức vô thượng. Còn những người nghi ngờ không tin là do họ chẳng hiểu các trí như Phật trí, Bất tư nghị trí, Bất khả xưng trí, Đại thừa quảng trí, Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí thì giống như không tin tội phúctu tập căn lành, nếu nguyện vãng sanh về cõi nước Cực Lạc thì những người này vãng sanh trong cung điện bảy báubiên địa cõi nước Cực Lạc, trong năm trăm năm không thấy Phật, không nghe kinh pháp. Còn người lấy nhân chân thật hiểu rõ Phật trí thì dù một niệm vẫn chắc chắn được sanh về báo độ”. Một niệm của ngài Hạnh Tây kết hợp với Phật trí thành một thể, hiểu rõ Phật trí thì quyết định vãng sanh.

Huyền nghĩa phần sao, Biệt thời môn của ngài Hạnh Tây trứ tác nói, xả định thiện, hành tán thiện[1]; xả các hạnh, hành xưng niệm (danh hiệu Phật); xả nhiều niệm, hành một niệm; xả chư Phật, hành thờ Di-đà là căn cứ các thuyết kinh Pháp hoa, Quán kinh. Trong bốn loại xả và hành, chỉ loại cuối cùng được ghi trong Quán kinh. Xả miệng xưng, hành tâm niệmy cứ thuyết của Đại kinh; điều này là chân thật. Biệt thời là môn khác, hạnh khác chính là theo kinh A-di-đà nói.

Quán kinh nói xả miệng xưng niệm Phật là y theo Đại kinh tu hành tâm niệm; vả lại, pháp tâm niệm này là chân thật. Môn khác, hạnh khác chẳng qua là pháp Biệt thời ý.

Cũng giống như thế, Biệt thời môn trong Quán kinh huyền nghĩa phần sao nói: “Nam mô là quy mạng, cũng là nghĩa phát nguyện hồi hướng, niệm A-di-đà Phật tức là hành, vì hiểu rõ nghĩa này nên chắc chắn được vãng sanh”.

Từ Quán kinh cho đến ‘ắt được vãng sanh’ của kinh Vô Lượng Thọ đều lấy đầy đủ nguyện lực làm căn bản, bất luận đầy đủ hay không đầy đủ, nên biết niệm Nam mô A-di-đà Phật chính là quy mạng, là phát nguyện, là hồi hướng, chỉ có trí tuệ Phật mới hiểu được trong nhất tâm đều đầy đủ. Hạnh nguyện của chúng sanh được vãng sanh vốn đã đầy đủ ở trong danh hiệu Nam mô A-di-đà Phật, chúng ta không cần phát nguyện, quy mạng, hồi hướng thêm nữa. Một niệm liền được vãng sanh chỉ có trí tuệ Phật mới hiểu được. Ngài Chứng Không nói Phật thể tức là hạnh. Thuyết đại hạnh, đại tín của Thân Loan đều kế thừa ý này.

 

Tiết thứ ba

Nghĩa một niệm của Phật trí

Tịnh độ pháp môn nguyên lưu chương của ngài Ngưng Nhiên nêu ra thuyết của ngài Hạnh Tây: “Đại đức Hạnh Tây lập nghĩa một niệm, nói một niệm là một niệm của Phật trí, chỉ cho một niệm tâm của Phật tâm chân thật. Một niệm của Phật tríbản nguyện của Di-đà. Tín niệm của hành giả tương ưng với Phật tâm thì tâm khế hợp với nguyện lực một niệm của Phật trí, năng sở không hai, tín và trí chỉ là một, niệm niệm tương tục thì quyết định vãng sanh”.

Ngài Thiện Đạo nói: “Biển trí nguyện của Di-đà sâu rộng không có bờ mé”. Trí nguyện là nêu ra nhân và quả của Đức Phật Di-đà. Trí là quả thể được cảm từ nhân. Nguyện là bốn mươi tám nguyện phát ra từ tâm; đáp lại hạnh nguyện nên được quả trí này, đương thể của quả trí đều là nguyện tâm, do nguyện tâm mà thành, tức là Phật trí. Trong trí có đủ nguyện lực đời trước của chư Phật, cho nên chủng trí của Di-đà đã có gọi là trí nguyện; đây gọi là một niệm tâm của Phật trí. Tín tâm của hành giả khế hợp với trí này, cho nên mỗi niệm tương ưng với Phật trí.

Ngài Ngưng Nhiên còn dẫn chứng Kiến giải lược của ngài Hạnh Tây: “Nói nhất thừa hải là nêu pháp và dụ”. Nhất thừa tức là hoằng nguyện, hoằng nguyện là Phật trí, Phật trí là một niệm. Hải như tất cả dòng sông đều chảy ra biển cả, tất cả thiện, ác của phàm phu đều quy về trí nguyện của Đức Phật Di-đà nên đều được vãng sanh.

Kinh Vô Lượng Thọ gọi là Phật trí, là ý nghĩa của bản nguyện Di-đà. Phật tríđáp lại nhân hạnh của bốn mươi tám nguyện mà được cảm ứng quả thể, trong quả trí này đầy đủ các nguyện lực đời trước. Ngài Thiện Đạo nói biển trí nguyện của Di-đà là nói đủ nhân nguyện và quả trí. Tức là hiển rõ trong quả trí đầy đủ nguyện lực của nhân vị.

Lại nói về nhất thừa hải. Nhất thừa tức là hoằng nguyện, hoằng nguyện là chỉ Phật trí, cũng hiển rõ nghĩa của trí nguyện. Như thế, ngài Thiện Đạo giải nói Phật trí trong kinh Vô Lượng Thọý nghĩa bản nguyện lực của Đức Phật. Nhưng bản nguyện của Phật đưa đến chỗ đạt “nãi chí nhất niệm”, tin hiểu ý này là hiểu rõ nghĩa Phật trí. Xả hạnh là thuộc chấp căn cơ tự lực, khi chuyên tâm quay về nguyện lực của Phật Di-đà khế hợp một niệm của Phật trí, năng sở không hai, tín và trí chỉ là một, niệm niệm tương tục, tức là tướng vãng sanh.

Ngài lại dẫn chứng Nhất trích kí trong Tịnh độ pháp môn nguyên lưu chương của ngài Hạnh Tây nói: “Như Lai năng độ là tâm, tâm là trí. Sở độ là chúng sanh”. Chân thật là một niệm tâm, chúng sanh được độ cũng là tâm, tâm là trí, trí là sở độ, cho đến nhị hà[2] cũng là tâm, bạch đạo cũng là tâm, chỉ là một niệm tâm; đây gọi là chân thật tâm, thâm tâm, nguyện tâm, đầy đủ ba tâm này nhất định được vãng sanh. Nói Như Lai năng độ là một niệm, chúng sanh sở độ cũng là một niệm; cho đến Phật trí, nguyện lực rốt cuộc cũng là một niệm, tâm lãnh giải cũng là một niệm, thể của năng, sở không hai là nói thành lập sự nghiệp thành tựu chúng sanh.

 

Tiết thứ tư

Bản môn Di-đà và Phật tính

Trong Pháp Nhiên thượng nhân hành trạng họa đồ quyển 29, ngài Hạnh Tây nói: “Pháp môn Tịnh độ xưa nay dẫn dụng giáo nghĩa của tông Thiên Thaikiến lập tích môn Di-đà và bản môn Di-đà. Di-đà đã thành Chính giác cách nay mười kiếp là Tích môn Di-đà, Bản môn Di-đà là vô thỉ bản giác Như Lai, cho nên Phật tính giống như chúng ta không có sai biệt. Đây gọi là nghe được một niệm thì đầy đủ muôn sự”.

Quán niệm pháp môn tư dụng sao quyển 4 của ngài Trí Viên nói: “Trong nghĩa một niệm, danh hiệu Di-đà đã thành Chính giác cách nay mười kiếp, kiến lập Di-đà tiếp dẫn chúng sanh là tích môn Di-đà, danh hiệu Phật-đà của vị này không nói vãng sanh. Bản môn Di-đà là Phật tột cùng vô thỉ vô chung, khi đắc một niệm tâm khởi của bản môn Di-đà này thì nói vãng sanh”. Y theo đây mà ngài Hạnh Tây kiến lập sự khác biệt Bản môn Di-đà và Tích môn Di-đà. Đức Phật Di-đà đã thành Chính giác cách nay mười kiếp là Tích môn Di-đà, vô thỉ bản giác Như Lai là Bản môn Di-đà. Bản môn Di-đà cùng với Phật tính vốn sẵn đủ của chúng ta đồng là một thể, hiểu được điều này thì gọi là đắc một niệm tâm, quyết định được vãng sanh.

Lại nữa, Quán kinh huyền nghĩa phần bí sao quyển 1 của ngài Hành Quán đề cập đến Vô Lượng Thọ kinh, Lưu thông phần của ngài Hạnh Tây ghi: “Có người nghe được danh hiệu của Đức Phật Di-đà hớn hở vui mừng, cho đến thuyết ‘một niệm’ là ý nghĩa tột cùng trong kinh”. Một niệm này là được nhập một niệm trong sát na hiện tiền theo chủ trương của tông Thiên Thai để kiến lập nghĩa một niệm. Một niệm nhỏ nhiệm là một niệm vọng tâm trong thân ngũ ấm hiện tiền của hàng phàm phu chúng ta, đầy đủ thật tướng các pháp của tam thiên trong mười pháp giới, quán sát tức là tâm tính của phàm phu xưa nay vốn là thể viên thường đại giác. Nhưng các điều đã được lưu truyền này hình như chưa nhất trí về quan điểm, y theochúng sanh và Phật không hai, ngộ được phàm phu chúng ta xưa nay vốn là Phật, hiểu rõ nội dung đồng nhất ấy; cho nên, không thể không cho rằng thuyết của ngài Hạnh Tây kiến lập hoàn toàn theo thuyết pháp môn bản giác của tông Thiên Thai.

 

Tiết thứ năm

Tư tưởng bản giác của tông Thiên Thai

Thuyết tâm, Phật, chúng sanh cả ba không có sai khác là thuyết xưa nay tông Thiên Thai đề xướng rất thịnh hành. Đặc biệtNhật Bản, thời trung cổ ở Tỉ Duệ Sơn sanh ra hai phái là Huệ Tâm và Đàn Na đều cổ xúy tư tưởng bản giác là một sự thật rất nổi tiếng (thông thường nói: phái Huệ Tâm là pháp môn bản giác, phái Đàn Napháp môn thỉ giác. Thật ra, hai phái này đều cổ xúy tư tưởng bản giác).

Tư tưởng bản giác tức là đối với pháp môn thỉ giác mà nói từ nhân hướng đến quả, chúng sanh vốn có tính giác, lập tức nhận ra Phật cùng tột vô thỉ. Nghĩa là phàm phu chính là bản giác Như Lai, chúng ta không hiểu lí này, giống như thân đeo châu báu mà ở trong xóm nghèo, khi nghe lí này thì tâm liền khai ngộ vô thỉ bản giác Như Lai tức thời có sẵn.

“Sự kiện nhất niệm thành Phật” trong Chẩm song chỉ do ngài Nguyên Tín trứ tác nói: “Đối với vị ‘danh tự tức’, gặp thiện tri thức nghe được giáo pháp chỉ trong chốc lát thì ngay chỗ ngồi liền biết tự thân tức Phật, không cầu điều gì khác, tức là trụ đại hội bình đẳng. Tức giải, tức hành, tức chứng, ở trong một niệm liền thủ chứng mau như trở bàn tay. Ý nghĩa của Viên giáo là văn, tư, tu (hành), chứng chỉ trong nhất thời, chưa dời chỗ ngồi, khi gặp giáo pháp liền nói là chứng”.

Lại nữa, Thiên Thai Pháp Hoa tông Ngưu Đầu pháp môn yếu toản do ngài Tối Trừng trứ tác nói: “Lí một niệm của phàm phuNhư Lai tạng, tri kiến như thế gọi là danh tự tức Phật. Hiển thị chân Phật của bản giác chỉ trong một niệm của ta. Giác ngộ Phật thể của tâm tính, thủ chứng chỉ trong khoảnh khắc”.

Tu Thiền tự tương truyền nhật ký theo truyền thuyết là cùng một tác giả (Tối Trừng) nói: “Đã liễu giải tu đại hạnh tương tục là chẳng phải ngoài liễu giải còn có hạnh nào khác để tu, chỉ cần liễu giải vị ‘danh tự tức’ là biết tất cả pháp đều là Phật pháp đều nói liễu giải tương tục này gọi là tu đại hạnh, tức là lý tự thân tức Phật. Nếu liễu giải được thì liền trụ đại hội bình đẳng, ngoài tức giải, tức hành, tức chứng thì không có hạnh nào khác để tu, khi gặp giáo pháp thì ngay chỗ ngồi liền thật chứng”.

Nhưng hai phái Huệ Tâm và Đàn Na chủ yếu thịnh hànhthời đại Liêm Thương, nay dẫn các sách phần nhiều là mượn của người đời sau. Nhưng ngài Hạnh Tây cùng với người đồng môn là ngài Pháp Bản Phòng Hạnh Không chủ xướng nghĩa Thường tịch quang độ, và ngài Thánh Quang chất vấn ngài Pháp Nhiên có phải là thuyết ‘tín cảnh tượng viên dung’ hay không? Đều thuộc vào pháp môn khẩu truyền của phái Huệ Tâm. Do đó, chúng ta được biết là khi ngài Pháp Nhiên còn tại thế có nói những điều này.

Nay ngài Hạnh Tây lập Bản môn Di-đà và Tích môn Di-đà, Bản môn Di-đà không sai khác với Phật tínhchúng ta sẵn đủ. Đắc tâm này nơi một niệm thì quyết định vãng sanh. Vị ‘danh tự tức’ là nghe pháp đốn giáo, nếu biết ‘tự thân tức Phật’ chính là trụ đại hội bình đẳng thì đồng một ý nghĩa này.

Ngoài niệm Nam mô A-di-đà Phật, không được quy y Phật khác, không phát nguyện khác, không hồi hướng nơi khác, chỉ liễu giải Phật trí đều là một tâm đầy đủ. Không cần hạnh nguyện của chúng sanh vãng sanh, tức giải, tức hạnh, tức chứng, không tu hạnh nào khác ngoài liễu giải là đồng một ý nghĩa. Nói ‘bình sanh nghiệp thành’, nói ‘vãng sanh tức là thành Phật’ đều dựa theo chủ trương một nghĩa lí này.

Tóm lại, phái chủ trương an tâm lãnh giải hấp thu pháp môn bản giác của tông Thiên Thai, rồi sửa đổi lại thành tông nghĩa của pháp môn Tịnh độ.

 

 

 

Tiết thứ sáu

Bản môn Di-đà và chỉ có nhất thừa

Thuyết Bản môn Di-đà và Tích môn Di-đà, trước đây ở Nhật Bản các nhà Thiên Thai đã từng đề xướng. Giảng diễn Pháp hoa lược nghi quyển thượng của ngài Viên Trân nói: “Trong phẩm Như Lai Thọ Lượng, kinh Pháp hoa nói Đức Phật Vô Lượng ThọTây phương thật sự sống lâu vô cùng”.

Niệm Phật bảo hiệu của ngài Giác Vận nói: “Đức Phật Thích-ca bắt đầu thành đạo ở Già-da chẳng phải Phật thật, theo lẽ đó thì Phật A-di-đà ở Cực Lạc cũng là thùy tích, chẳng phải thật”. Trong Pháp hoa can yếu lược chú tú cú tập quyển hạ của ngài Tối Trừng trứ tác nói: “Vương tử thứ chín trong mười sáu vương tử là Tích môn Di-đà. Phật Thích-ca Mâu-ni của bản địa vô tác là Bản môn Di-đà. Phật Di-đà được nói trong Quán kinh là Tích môn Di-đà cùng một cách nói với Bản môn Di-đà trong kinh Pháp hoa”.

Theo trên đã nói, cũng có thể biết thuyết Bản môn Di-đà và Tích môn Di-đà của ngài Hạnh Tây được thành lập từ sự hấp thu giáo nghĩa của tông Thiên Thai.

Huyền nghĩa phần sao, Nhị thừa môn của ngài Hạnh Tây nói: “Hai loại nguyện tổng, biệt trong nhân hạnh của chư Phật đều là thùy tích lợi sanh, là phương tiện sau khi đắc quả giống như hai môn bản và tích trong kinh Pháp hoa và các thuyết trong kinh Hiền ngu v.v…”

Thế nào là lợi sanh, phương tiện? Tổng nguyện phương tiện chính là biệt nguyện. Biệt nguyện phương tiện chính là Di-đà. Bốn mươi tám nguyện phương tiện chính là niệm Phật vãng sanh. Mười niệm phương tiện chính là một niệm. Vì thế, Quán kinh nói: “Ba đời chư Phật lấy tịnh nghiệp làm chính nhân”.

Bát-chu tam-muội nói: “Ba đời chư Phật trì niệm A-di-đà Phật tam-muội mà được thành Phật”. Đức Phật A-di-đà Phật thành Chính giác cách nay mười kiếp lẽ nào nói không thật? Chỉ có vô duyên đại từ của giác hạnh viên mãn cứu độ chúng sanh thường bị chìm trong biển khổ sanh tử vãng sanh về cõi Phật của báo thân thường trụkhai hiển trí tuệ rộng lớn của Đại thừa. Nhờ chư Phật, bồ-tát vị lai, quá khứ, hiện tại vận chuyển Đại thừa mà độ chúng sanh ra khỏi biển khổ sanh tử, chứng nhập quả thánh đạo. Từ vô thỉ đến nay chỉ có nhất thừa, không có thừa nào khác. Đây là bốn mươi tám lời nguyện, mười niệm vãng sanh, thùy tích lợi sanh, phương tiện sau khi đắc quả của Phật Di-đà

Bản môn Di-đà khai hiển chỉ có một niệm của nhất thừa; do đó, chỉ có một niệm này được gọi là pháp chân thật. Nghĩa là chư Phật ở nhân vị phát hai nguyện tổng và biệt, ở trong vô lượng kiếp tu hành thành Phật, chỉ nói điều này là chân thật. Cho nên thùy tích lợi sanh chẳng qua là phương tiện sau khi đắc quả.

Theo kinh Bát-chu tam-muội nói, ba đời chư Phật trì niệm Di-đà tam-muội mà được thành Phật, hiển thị Phật A-di-đà chẳng phải Phật mới thành Chánh giác mà cách nay mười kiếp, tức là bản giác Như Lai vô thỉ vô chung. Vì phương tiện sau khi đắc quả không ngoài thân thùy thị hóa tích này, cho nên bốn mươi tám lời nguyện của Phật Di-đà, mười niệm vãng sanh v.v…lẽ nào nói không chân thật? Đã hiển bày chỉ có một niệm chân thật, đó là phương tiện độ sanh. Một niệm là khai hiển trí tuệ rộng lớn Đại thừa của vô thỉ bản giác Như Lai, chỉ có nhất thừapháp chân thật, không hai cũng không ba. Ba đời chư Phật đều do một niệm Di-đà tam-muội này mà thành Phật, cứu vớt chúng sanh thường bị chìm trong sanh tử cũng do chỉ có nhất thừa chân thật mà được vãng sanh về cõi Phật của báo thân thường trụ.

Như thế, ngài Hạnh Tây lấy một niệm để mở bày bản môn Di-đà; đồng thời, bốn mươi tám nguyện, mười niệm vãng sanh v.v…là tích môn lợi sanh, tức là hiển bày một niệm chân thật chẳng qua là phương tiện độ sanh, cho rằng nhiều niệm vô ích, đây gọi là tự lực khó hành. Nhưng nếu nghi ngờ bản nguyện của Đức Phật thì phải từ kiến địa của pháp môn bản giác để hiểu rõ những pháp tu hành kia là pháp môn Thỉ giác bất liễu nghĩa. Một khi không biết tư tưởng bản giác và không xem văn hiến của các Tổ mà dám cả gan chủ trương nghĩa mới ‘một niệm vãng sanh’ là đặc sắc của ngài. Lại từ chủ trương này thấy được sự chuyển biến và phát triển của giáo nghĩa Tịnh độ, không thể không nói đây là một sự kiện rất hay.


 

[1] Theo ngài Thiện Đạo, mười ba pháp quán đầu trong mười sáu pháp quán của kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật là ‘định thiện’, ba pháp quán sau là ‘tán thiện’

[2] Nhị hà dụ cho tham và sân. Bạch đạo dụ cho con đường đưa đến Tây phương (xem trong Tuyển trạch bản nguyện niệm Phật tập của ngài Pháp Nhiên).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19688)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23949)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41204)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19677)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23972)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21741)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23291)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27490)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26544)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29303)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33171)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20179)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25755)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20902)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31287)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38536)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21413)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44234)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29805)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42167)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22126)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45726)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32101)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23945)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24377)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29238)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33901)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27667)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32114)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21055)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28838)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21557)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28044)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22054)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21418)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19483)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19456)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19819)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19229)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29162)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20607)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28271)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23637)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33160)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31827)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21362)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39604)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21541)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19362)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26366)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24808)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21742)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22366)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29121)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22548)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20460)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23504)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21227)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35288)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24538)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant