Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

08. Phẩm Ba La Mật Đa

19 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10170)
08. Phẩm Ba La Mật Đa

KINH ĐẠI-THỪA BẢN-SINH TÂM-ĐỊA-QUÁN
Đường, Bát-Nhã dịch chữ Phạn ra chữ Hán.
Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt

VIII.- PHẨM BA-LA-MẬT-ĐA

Bấy giờ, Đại-bồ-tát Di-Lặc bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Bởi nhân-duyên gì đức Thế-Tôn ân-cần khen-ngợi sự tu-hành của Bồ-tát ở nơi A-lan-nhã, mà không khen-ngợi sự tu-hành của Bồ-tát ở nơi khác? Có một thời đức Thế-Tôn ở núi Linh-Thứu vì các Bồ-tát nói rộng pháp-yếu mà Ngài nói lời này: “Bồ-tát, hoặc có khi ở nhà dâm-nữ, thân gần với người đồ-tể, để chỉ dạy sự lợi-ích vui-vẻ cho họ, dùng vô-số phương-tiện nhiêu-ích chúng-sinh mà vì họ nói diệu-pháp cho họ nghe, khiến họ nhập Phật-đạo”. Ngày nay đức Thế-Tôn vì các vị mới phát tâm nói diệu-pháp, Ngài lại không nói như thế. Song, bọn chúng tôi luôn luôn thân-dự trước Phật, được nghe pháp sâu-xa, không có gì ngờ-vực nhưng, kính xin đức Như-Lai vì những người cầu Phật-đạo đời mai sau, mà diễn nói cho những chân-lý sâu-xa mầu-nhiệm, khiến hạnh Bồ-tát của họ không bị thoái-chuyển”.

Khi ấy, đức Phật bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc rằng: “Thiện-nam-tử! Phát tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác cầu đạo Bồ-đề có hai hạng Bồ-tát: Một là tại-gia. Hai là xuất-gia. Bồ-tát tại-gia vì muốn hóa-đạo, phòng dâm, hàng thịt đều được thân-cận. Bồ-tát xuất-gia không như thế.

Song, Bồ-tát ấy đều có chín bậc: Ba bậc thượng-căn đều ở nơi A-lan-nhã, không gián-đoạn sự tinh-tiến làm lợi-ích chúng-sinh. Các Bồ-tát trung-căn và hạ-căn tùy chỗ nào hợp thì ở, nơi chốn không nhất định, hoặc ở nơi A-lan-nhã, hoặc ở nơi làng xóm, tùy duyên làm lợi-ích, an-ổn chúng-sinh đều được hạnh-môn như thế. Ông nên quán-sát!

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia tu-tập Phật-đạo, đã được pháp vô-lậu chân-thực, thời tùy duyên làm lợi lạc hết thảy chúng-sinh. Nếu có Phật-tử chưa được chân-trí, ở nơi Lan-nhã, cần nên thân-cận chư Phật, Bồ-tát và nếu gặp được bậc chân-thiện-tri-thức, thời đối với hạnh Bồ-tát quyết không thoái-chuyển. Bởi nhân-duyên ấy, các Phật-tử cần nên dốc lòng cầu thấy một đức Phật và một vị Bồ-tát.

Thiện nam-tử! Như thế gọi là pháp-yếu xuất-thế, các ông đều nên nhất tâm tu-học!

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia chán bỏ thế-gian, ở nơi A-lan-nhã biết dùng công-lực được viên-mãn tám vạn bốn nghìn Ba-la-mật-hạnh và chóng chứng được vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Sở-dĩ thế là sao? - Nếu người bỏ danh-lợi vào ở trong rừng núi, đối với thân-mệnh mình cũng như của-cải của mình không sẻn-tiếc gì nữa, vĩnh-viễn không hệ-thuộc vào nó, thời tự-nhiên được đầy-đủ dễ-dàng ba thứ Ba-la-mật-đa. [1] 

Bồ-tát Di-Lặc bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Ở nơi A-lan-nhã, Bồ-tát xuất-gia không chứa cất của báu, vậy bởi nhân-duyên gì mà Bồ-tát ấy viên-mãn được Bố-thí Ba-la-mật?”

Đức Phật bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc: “Thiện-nam-tử! Ở nơi A-lan-nhã, Bồ-tát xuất-gia vào trong xóm làng khất-thực, những món ăn xin được, trước tiên nên đem phần nhỏ cho chúng-sinh, sau nữa lại đem phần còn thừa cho những chúng-sinh nào muốn, tức được tên gọi là “Bố-thí Ba-la-mật”. Đem thân-mệnh mình cúng-dàng Tam-bảo, đem đầu mắt, tủy, óc bố-thí cho người lại xin, tức được gọi là “Thân-cận Ba-la-mật”. Vì người cầu pháp, nói pháp xuất-thế, khiến họ phát tâm vô-thượng Bồ-đề, tức được gọi là “Chân-thực Ba-la-mật”. Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Bố-thí Ba-la-mật-đa.”
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, tu mười hai hạnh Đầu-đà, nếu khi đi bộ nên coi xuống đất cách chừng hai khuỷu tay, để không làm tổn-hại chúng-sinh, tức được tên gọi là “Trì-giới Ba-la-mật”. Kiên-trì giới cấm, không tiếc thân-mệnh, tức được gọi là “Thân-cận Ba-la-mật”. Vì người cầu đạo xuất-thế, thuyết-pháp giáo-hóa, khiến họ phát tâm vô-thượng Bồ-đề, tức được gọi là “Chân-thực Ba-la-mật”. Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Trì-giới Ba-la-mật-đa”.

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, diệt sự giận-bực, được “Từ-tâm tam-muội” và cũng không hủy-nhục hết thảy chúng-sinh, tức được tên gọi là “Nhẫn-nhục Ba-la-mật” (Xưa, nay vẫn thiếu một đoạn “Thận-cận Ba-la-mật” này). Nếu vì một người nói một câu pháp, khiến họ phát tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác, tức được gọi là “Chân-thực Ba-la-mật”. Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Nhẫn-nhục Ba-la-mật-đa”.

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia vì muốn khiến chúng-sinh được thành Phật nên tu hạnh “tinh-tiến”. Chưa được thành Phật, phúc-đức, trí-tuệ kém-cỏi, không tham yên-vui, không tạo mọi tội, đối với trong những hạnh khổ-hạnh của những Bồ-tát xưa, sinh tâm rất mừng, cung-kính, tôn-ngưỡng, luôn luôn không lúc nào thôi, bởi nhân-duyên ấy, tức được tên gọi là “Tinh-tiến Ba-la-mật”. Bỏ thân-mệnh như nhổ nước bọt, dãi, trong hết thảy thời chưa từng biếng nhác, tức được gọi là “Thân-cận Ba-la-mật”. Gặp người có duyên, nói đạo tối-thượng, khiến họ đi tới vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề, tức được gọi là “Chân-thực Ba-la-mật”. Do tâm tinh-tiến, mười hạnh [2] như thế, đời quá-khứ không bị thoái-chuyển, đời hiện-tại được vững-bền và đời vị-lai chóng được viên-mãn. Thiện-nam-tử! Thế gọi là Đại-bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Tinh-tiến Ba-la-mật-đa”.

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, tu-tập chính-định, vì giữ cho các pháp không tan mất, thể-nhập các môn giải-thoát, dứt hẳn biên-kiến, [3] hiển-hiện thần-thông, hóa-độ chúng-sinh, khiến họ được chính-trí, dứt được gốc phiền-não, chứng-nhập chân-pháp-giới, ngộ đạo như-thực và sẽ tới Bồ-đề; bởi nhân-duyên ấy, tức được tên gọi là “Thiền-định Ba-la-mật”. Muốn làm cho chúng-sinh như ta không khác, nghĩa là đều được đầy đủ phép điều-trị chúng-sinh, không bỏ chính-định, không tiếc thân-mệnh; tu chính-định ấy, tức được gọi là “Thân-cận Ba-la-mật”. Vì các chúng-sinh nói pháp sâu-nhiệm, đều khiến họ xu-hướng đạo vô-thượng Bồ-đề, tức được gọi là “Chân-thực Ba-la-mật”. Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Thiền-định Ba-la-mật-đa”.

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi không-nhàn, thân-cận cúng-dàng chư Phật, Bồ-tát. Là những bậc trí-giả các Bồ-tát thường thích nghe những pháp sâu-nhiệm, tâm sinh khát-ngưỡng, luôn luôn không biết chán, đủ; lại hay phân-biệt rành chân-lý Nhị-đế, [4] dứt trừ hai chướng, thông-suốt ngũ-minh, [5] nói các pháp-yếu, giải-quyết mọi sự ngờ-vực; bởi nhân-duyên ấy, tức được tên gọi là “Bát-nhã ba-la-mật”. Vì cầu nửa bài kệ mà hủy bỏ thân-mệnh, không sợ mọi khổ, để đến chỗ Đại-bồ-đề, tức được thành-tựu “Thân-cận Ba-la-mật”. Ở trong đại-hội vì người nói pháp, đối với những nghĩa sâu-nhiệm không sẻn tiếc, bí-mật, khiến họ phát-khởi tâm Đại-bồ-đề và đối với hạnh Bồ-tát được Bất-thoái-chuyển. Thường hay quán-sát thân ta, Lan-nhã, tâm Bồ-đề và Pháp-thân chân-thực: bốn thứ ấy không sai khác; vì quán diệu-lý như thế, như thế tức được gọi là “Chân-thực Ba-la-mật”. Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Bát-nhã ba-la-mật-đa”.
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi không nhàn, thường hay tu-tập “Phương-tiện thắng-trí Ba-la-mật-đa”. [6] Dùng “Tha-tâm-trí” [7] hiểu rõ ý muốn, phiền-não, tâm-hành sai-biệt của chúng-sinh, hợp bệnh cho thuốc, đều làm cho họ khỏi được, được thần-thông tam-muội du-hí tự-tại, phát bi-nguyện lớn, thành-thục chúng-sinh, các pháp của chư Phật đều thông-suốt cả, [8] bởi nhân-duyên ấy, tức được tên gọi là “Phương-tiện thiện-sảo Ba-la-mật-đa”. Vì muốn làm lợi-ích cho các chúng-sinh, đối với thân-mệnh và của-cải đều không có tiếc, tức được gọi là “Thân-cận Ba-la-mật-đa”. Vì các chúng-sinh oán, thân bình-đẳng, nói pháp vi-diệu, làm cho họ chứng-nhập Phật-trí, tức được gọi là “Chân-thực Ba-la-mật-đa”. Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Phương-tiện thiện-sảo Ba-la-mật-đa”.

Lại nữa thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia vào trong rừng núi, vì các chúng-sinh nên thường tu-tập “Nguyện Ba-la-mật”. Tâm các vị ấy luôn luôn quán-sát chân-tính của các pháp, chẳng phải “có”, chẳng phải “không”, mà là diệu-lý trung-đạo; đối với việc thế-tục đều phân-biện rõ được và cũng vì hóa-độ chúng-sinh nên luôn luôn tu về từ-bi; bởi nhân-duyên ấy tức được tên gọi là “Nguyện Ba-la-mật”. Đem bốn lời thệ-nguyện rộng lớn [9] nhiếp-thụ chúng-sinh, cho đến dù bỏ thân-mệnh vẫn không làm hoại mất bi-nguyện ấy, tức được gọi là “Thân-cận Ba-la-mật”. Nói pháp vi-diệu, biện-tài vô-ngại, nếu có người nào lắng nghe được diệu-pháp ấy rốt-ráo không bị thoái-chuyển, tức được gọi là “Chân-thực Ba-la-mật”. Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Nguyện Ba-la-mật-đa”.

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở A-lan-nhã, dùng năng-lực chính-trí, hiểu rành tâm-hạnh đen, trắng (thiện, ác, thanh-tịnh, không thanh-tịnh) của chúng-sinh, vì chúng-sinh nói pháp tương-ứng, khiến họ chứng-nhập nghĩa sâu nhiệm của Đại-thừa, an-trụ nơi cứu-cánh Niết-bàn; bởi nhân-duyên ấy, tức được tên gọi là “Lực Ba-la-mật”. Dùng mắt chính-trí soi thấy lý “ngũ uẩn không-tịch”, (5 uẩn không, vẳng), có thể bỏ thân-mệnh làm lợi-ích cho chúng-sinh, tức được gọi là “Thân-cận Ba-la-mật”. Dùng năng-lực diệu-trí hóa-độ bọn tà-kiến, khiến họ dứt bỏ nghiệp ác sinh-tử luân-hồi, xu-hướng Niết-bàn cứu-cánh thường lạc, tức được gọi là “Chân thực Ba-la-mật”. Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Lực Ba-la-mật-đa”.

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở A-lan-nhã, đối với hết thảy pháp biết rõ thiện hay ác, xa lìa tà-kiến, nhiếp-thụ chính-pháp, không chán sinh-tử, không thích Niết-bàn, tức được tên gọi là “Trí Ba-la-mật”. Không yêu thân mình, luôn luôn thương xót chúng-sinh; đối với thân-mệnh và của cải thường tu hạnh đại-xả (bỏ hết) tức được gọi là “Thân-cận Ba-la-mật”. Dùng trí-tuệ vi-diệu vì các chúng-sinh nói pháp Nhất-thừa, khiến họ chứng-nhập đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác; bởi nhân-duyên ấy, tức được gọi là “Chân-thực Ba-la-mật”. Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Trí Ba-la-mật-đa”. [10] 

Thiện-nam-tử! Những Ba-la-mật-đa ấy, bởi nghĩa gì mà Tôi lại nói là nó phát-sinh ra tám vạn bốn nghìn sự sai khác? Các ông nên biết! Vì những người nhiều “tham” mà phân-biệt, diễn nói ra hai nghìn một trăm Ba-la-mật-đa, vì những người nhiều “sân” mà phân-biệt, diễn nói ra hai nghìn một trăm Ba-la-mật-đa, vì những người nhiều “si” mà phân-biệt, diễn nói ra hai nghìn một trăm Ba-la-mật-đa, vì những người “đẳng phận” [11] mà phân-biệt, diễn nói ra hai nghìn một trăm Ba-la-mật-đa. Thiện-nam-tử! Đối với những số hai nghìn một trăm Ba-la-mật-đa ấy làm căn-bản, rồi chuyển gấp hơn lên, thành tám vạn bốn nghìn Ba-la-mật-đa. Những pháp như thế, đều là hạnh lợi-tha.

Thiện-nam-tử! Nếu có chúng-sinh, tính-khí khó điều-phục, nghe pháp ấy rồi mà tâm chưa điều-phục được, liền vì họ tuyên-thuyết tám vạn bốn nghìn Tam-muội-môn. Diệu-pháp như thế đều là hạnh tự-lợi! Nếu có chúng-sinh tính-khí khó điều-phục, nghe pháp ấy rồi, mà tâm chưa điều-phục được, liền vì họ tuyên-thuyết tám vạn bốn nghìn Đà-ra-ni-môn. Diệu-pháp như thế đều là hạnh lợi-tha! Thiện-nam-tử! Tôi vì điều-phục hết thảy chúng-sinh nên nói ra pháp như thế và đem vô số phương-tiện thiện sảo, thị-hiện mọi tướng, giáo-hóa chúng-sinh. Thiện-nam-tử! Vì nghĩa ấy nên hết thảy Nhân, Thiên đều gọi Như-Lai là Đạo-sư.

Thiện-nam-tử! Chư Phật Thế-Tôn trong hiện-tại và vị-lai đều tu-tập tám vạn bốn nghìn Ba-la-mật-môn, tám vạn bốn nghìn Tam-muội-môn, tám vạn bốn nghìn Đà-ra-ni-môn, dứt hẳn tám vạn bốn nghìn phiền-não-chướng vi-tế, tám vạn bốn nghìn sở-tri-chướng vi-tế và đều tới dưới gốc cây Bồ-đề nơi Lan-nhã, ngồi tòa Kim-cương, nhập-định Kim-cương, hàng-phục được hết thảy thiên-ma oán-thù rồi, chứng được vô-thượng chính-đẳng chính-giác. [12] 

Lúc đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy Ngài nói lời kệ sau này:

Đại-pháp-vương vượt qua ba cõi,
Xuất-hiện thế-gian hóa mọi loài.
Các Bồ-tát nhiều như Hằng-sa,
Nhập Phật Cam-lộ trí-tuệ-môn.
Di-Lặc đắc-đạo trong nhiều kiếp,
Đem tâm Đại-bi mà khải-vấn.
Lành thay, vô-cấu Pháp-vương-tử!
Trí-tuệ mở tỏ Chân-phật-thừa.
Tôi đem biện-tài vô-úy nói,
Nói trong Đại-thừa, hướng đường giác.
Các ông nhất tâm lắng nghe kỹ!
Trao chuyển đời sau điều nên trao.
Mười phương thế-giới có thể không,
Chớ để dứt hết đạo xuất-thế!
Muốn cầu đạo xuất-thế giải-thoát,
Chẳng qua ba căn, chín phẩm loại. [13] 
Ba phẩm Thượng-căn ở Lan-nhã,
Trung, Hạ tùy duyên hóa thế-gian.
Chỗ cầu đạo-quả không sai khác,
Cùng nói chân-như, Phật-tính-hải.
Đại-sĩ chứng được vô-lậu rồi,
Tùy nghi ứng-hiện cứu quần-sinh,
Mở tỏ “hữu, không” bất nhị-môn. [14] 
Lợi mình, lợi người không gián-đoạn.
Phật-tử chưa chứng được vô-lậu,
Nên chính, chăm tu ba môn học. [15] 
Thiện-căn hồi-hướng cho chúng-sinh,
Một lòng chuyên niệm Phật, Bồ-tát:
Nguyện, con thường thấy Phật, Bồ-tát,
Tấm thân công-đức rất trang-nghiêm.
Nếu thường được nghe tiếng pháp-vũ,
Tất cả thấm-nhuần, tâm chẳng thoái.
Đem thân thường ở trong địa-ngục,
Cũng vẫn thân-cận Đại-từ-tôn.
Đem thân thường ở trong luân-hồi,
Cũng vẫn thân nghe pháp vi-diệu.
Bởi nhân-duyên ấy, các Phật-tử,
Buộc tâm thường niệm: “Thiên-nhân-sư”.
Nếu có Phật-tử tu Thánh-đạo,
Phát khởi Vô-thượng Bồ-đề-tâm;
Chán đời ở trong A-lan-nhã,
Cũng được là tu ba thứ “Độ”. [16] 
Bố-thí trước khi ăn mỗi ngày,
Và, đem pháp báu cho chúng-sinh;
Ba vòng thanh-tịnh [17] là “Bố-thí”,
Bởi nhân tu ấy, đức viên-mãn.
Nên biết chứng được Ba-la-mật,
Chỉ do tâm tịnh, không do của;
Nếu có nhiễm tâm, cho ngọc quý,
Không bằng tâm tịnh cho chút ít.
Cho của tức được Bố-thí-độ,
Ba-la-mật ấy chẳng hai, ba.
Hay cho thân-mệnh và vợ con,
Như thế được là “Thân-cận-độ”.
Nếu thiện-nam, nữ đến cầu pháp,
Vì nói hết thảy Đại-thừa-kinh;
Khiến phát vô-thượng Bồ-đề-tâm,
Mới gọi “Chân-thực Ba-la-mật”.
Từ-bi, tịnh-tín đủ thẹn-hổ,
Nhiếp-thụ chúng-sinh lìa tham-trước;
Nguyện thành Như-Lai vô-thượng-trí,
Cho của, cho pháp là Sơ-độ.
Giữ bền tam-tụ-giới Bồ-tát,
Khai-phát Bồ-đề, lìa sinh-tử;
Ủng-hộ Phật-pháp ở thế-gian,
Hối sự lầm phạm: “Chân-trì-giới”.
Dẹp tâm giận-bực, quán từ-bi,
Nên nghĩ nhân xưa đối-oán hại; [18] 
Không tiếc thân-mệnh cứu chúng-sinh,
Thế là “Nhẫn-nhục Ba-la-mật”.
Làm hạnh khó làm không tạm bỏ,
Ba Tăng-kỳ-kiếp thường tăng-tiến;
Không cùng nhơ nhiễm, thường luyện tâm,
Vì độ chúng-sinh cầu giải-thoát.
Ra, vào chính-định được tự-tại,
Biến-hóa thần-thông dạo mười phương;
Dứt nhân phiền-não cho chúng-sinh,
Cửa Tam-ma-địa cầu giải-thoát.
Nếu muốn thành-tựu chân-trí-tuệ,
Thân-cận Bồ-tát và Như-Lai;
Thích nghe diệu-lý-môn [19] xuất-thế,
Tu đạt ba minh, dứt hai chướng.
Biết tâm chúng-sinh thường sai-biệt,
Tùy bệnh cho thuốc khiến họ uống;
Từ-bi thiện-sảo hợp căn-cơ,
Phương-tiện lợi-sinh độ mọi cõi.
Quán chân-cú-nghĩa [20] hết thảy pháp,
Không chấp giữa, bên, lìa “có, không”.
Tịnh-trí liên-tiếp ngộ chân-như,
Lợi mình, lợi người khắp pháp-giới.
Trí-lực hiểu rõ tính chúng-sinh,
Vì nói “tương-ứng” của mọi pháp.
Trí-lực thể-nhập tâm chúng-sinh,
Khiến dứt gốc luân-hồi sinh-tử.
Trí-lực phân-biệt pháp trắng, đen,
Tùy nên lấy, bỏ đều hiểu thấu.
Sinh-tử, Niết-bàn vốn bình-đẳng,
Thành-tựu chúng-sinh lìa phân-biệt.
Mười hạnh thù-thắng trên như thế,
Nhiếp vào tám vạn bốn nghìn số;
Tùy theo phẩm-loại thắng pháp-môn,
Mới là Bồ-tát Ba-la-mật.
Tám vạn bốn nghìn Tam-ma-địa,
Diệt-tâm tán-loạn cho chúng-sinh.
Tám vạn bốn nghìn Tổng-trì-môn,
Trừ-diệt hoặc-chướng, tan ma-chúng.
Năng-lực phương-tiện đấng Pháp-vương,
Ba thứ pháp-yếu hóa [21] chúng-sinh;
Lưới “giáo” bủa chăng bể sinh-tử,
Đặt Nhân, Thiên lên chốn an-lạc. [22] 

Khi đức Thế-Tôn nói pháp ấy, tám vạn bốn nghìn Thiên-tử cõi Đao-lỵ, dứt được các giới-chướng, [23] chứng Hoan-hỷ-địa. Vô số trăm nghìn Thiên-tử trong sáu cõi trời Dục ngộ Vô-sinh-nhẫn, được Đà-ra-ni. Mười sáu Đại-quốc-vương được nghe Đà-ra-ni, vô-lượng tứ chúng nghe hạnh Bồ-tát hoặc được Bất-thoái-địa, hoặc được Tam-muội-môn, hoặc được Đà-ra-ni, hoặc được đại-thần-thông, hoặc có Bồ-tát chứng được Tam-địa cho đến Thập-địa, vui mừng hớn-hở. Vô-lượng trăm nghìn các Nhân, Thiên…, phát tâm vô thượng chính-đẳng chính-giác, không bị thoái-chuyển. Tám nghìn Nhân, Thiên xa lìa trần-cấu, được pháp-nhãn-tịnh. [24] 

TOÁT-YẾU
VIII.- PHẨM BA-LA-MẬT

Đại-bồ-tát Di-Lặc bạch Phật: “Bạch đức Thế-Tôn! Sao chỉ thấy Thế-Tôn khen ngợi sự tu-hành của Bồ-tát tại A-lan-nhã mà không thấy Ngài khen-ngợi sự tu-hành của các Bồ-tát ở nơi khác? Có một thời trên núi Linh-thứu Ngài nói: “Bồ-tát có khi ở nhà dâm-nữ, ở gần người đồ-tể để chỉ dạy họ, khiến họ vào đạo”. Nay lại không thể. Vậy xin Thế-Tôn nói cho lý thâm-diệu ấy, để cho những người cầu Phật-đạo mai sau, không có sự ngờ-vực và không bị thoái-chuyển”.

Đức Phật bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc: “Phát tâm vô-thượng cầu đạo bồ-đề có hai hạng Bồ-tát: 1/ Tại-gia. 2/ Xuất-gia. Bồ-tát tại-gia vì sự hóa-đạo được thân-cận nơi phòng dâm, hàng thịt. Bồ-tát xuất-gia không thế. Song, Bồ-tát ấy còn có 9 bậc: 3 bậc thượng-căn ở A-lan-nhã, 3 bậc Trung-căn và 3 bậc Hạ-căn tùy ở chỗ nào hợp với sự làm lợi-ích cho chúng-sinh thì ở. Hơn nữa, Bồ-tát xuất-gia tu Phật-đạo đã được vô-lậu-pháp thời tùy duyên làm lợi-lạc chúng-sinh. Nếu chưa, ở nơi A-lan-nhã nên thân-cận chư Phật, Bồ-tát hay gặp các bậc Chân-thiện-tri-thức. Đó là pháp-yếu xuất-thế!”

Bồ-tát xuất-gia ở A-lan-nhã, dùng công-lực sẽ viên-mãn 84.000 hạnh Ba-la-mật và chóng chứng vô-thượng-giác. Nếu người bỏ danh-lợi, không tiếc thân-mệnh của cải, tu nơi rừng núi dễ được ba thứ: Danh-tự, thân-cận và chân-thực trong mười Ba-la-mật.

- BỐ-THÍ: Bồ-tát không có của, lấy đâu bố-thí mà viên-mãn được Bố-thí ba-la-mật?
Đem ít món ăn xin được và những món ăn còn thừa cho người muốn, là “Bố-thí”. Đem thân-mệnh cúng-dàng Tam-bảo, xả thân cho người, là “Thân-cận”. Nói pháp xuất-thế, khiến người cầu pháp phát tâm vô-thượng là “Chân-thực”.

- TRÌ-GIỚI: Không làm tổn-hại chúng-sinh là “Trì-giới”. Kiên-trì giới cấm, không tiếc thân-mệnh là “Thân-cận”. Và, thuyết-pháp khiến người cầu đạo xuất-thế phát tâm vô-thượng là “Chân-thực”.

- NHẪN-NHỤC: Diệt giận-bực, không hủy-nhục chúng-sinh là “Nhẫn-nhục”. Và, vì người thuyết-pháp khiến họ phát tâm vô-thượng là “Chân-thực”.

- TINH-TIẾN: Chưa thành Phật, phúc-trí kém, không ham vui, không tạo tội, kính ngưỡng khổ-hạnh của các Bồ-tát là “Tinh-tiến”. Hy-sinh thân-mệnh dễ-dàng là “Thân-cận”. Nói đạo tối-thượng, khiến người cầu đạo tới vô-thượng-giác là “Chân-thực”.

- THIỀN-ĐỊNH: Tu-tập chính-định, thể-nhập các môn giải-thoát, dứt biên-kiến, hiện thần-thông, hóa-độ chúng-sinh, khiến họ được chính-trí, dứt phiền-não, ngộ chân-pháp-giới, ngộ đạo như-thực và sẽ tới bồ-đề là “Thiền-định”. Làm cho chúng-sinh tu tam-muội, không tiếc thân-mệnh là “Thân-cận”. Nói pháp thâm-diệu khiến chúng-sinh xu hướng đạo vô-thượng là “Chân-thực”

- BÁT-NHÃ: Thân-cận cúng-dàng chư Phật, Bồ-tát, các bậc trí-giả, thích nghe diệu-pháp không chán, lại hiểu rõ lý Nhị-đế, trừ 2 chướng, suốt ngũ minh, nói các pháp-yếu, giải-quyết ngờ-vực là “Bát-nhã”. Cầu nửa bài kệ mà hủy thân không sợ khổ, đạt tới Đại-bồ-đề là “Thân-cận”. Nói pháp sâu-nhiệm không sẻn tiếc, bí-mật khiến người nghe, phát tâm đại-bồ-đề, bất-thoái-chuyển. Và, quán thân ta, Lan-nhã, bồ-đề-tâm và pháp-thân không khác là “Chân-thực”.

- PHƯƠNG-TIỆN THIỆN-SẢO: Dùng “tha-tâm-trí” hiểu rõ ý muốn, phiền-não, tâm-hành sai khác của chúng-sinh mà tùy bệnh cho thuốc, khiến họ thoát khỏi, được thần-thông, phát tâm bi-nguyện thành-thục chúng-sinh và thông suốt các pháp là “Phương-tiện thiện-sảo”. Vì việc lợi-ích không tiếc thân-mệnh, của cải là “Thân-cận”. Nói pháp không phân-biệt oán, thân, khiến chúng-sinh chứng-nhập Phật-trí là “Chân-thực”.

- NGUYỆN: Tâm luôn luôn quán pháp-tính là “Trung-đạo” chẳng phải “có”, chẳng phải “không”; hiểu rõ thế-tục, tu đức từ-bi để độ-sinh là “Nguyện”. Đem 4 nguyện lớn độ-sinh, dù phải xả thân cũng không bỏ, là “Thân-cận”. Nói pháp vi-diệu, biện-tài vô-ngại, người nghe được bất-thoái-chuyển là “Chân-thực”.

- LỰC: Dùng sức chính-trí, hiểu tâm-hạnh, nói pháp tương-ứng, khiến chúng-sinh chứng-nhập nghĩa sâu-nhiệm của Đại-thừa và an-trụ cứu-cánh Niết-bàn là “LỰC”. Dùng mắt chính-trí soi thấy “5 uẩn không-tịch”, xả thân làm việc lợi-ích cho chúng-sinh là “Thân-cận”. Dùng sức diệu-trí độ bọn tà-kiến, khiến họ bỏ nghiệp sinh-tử luân-hồi, xu-hướng về Niết-bàn thường lạc là “Chân-thực”.

- TRÍ: Biết rõ thiện, ác, xa lìa tà-kiến, nhiếp-thụ chính-pháp, không chán sinh-tử, không thích Niết-bàn là “TRÍ”. Thương chúng-sinh, thường xả thân-mệnh, của cải là “Thân-cận”. Dùng vi-diệu-trí nói pháp Nhất-thừa khiến chúng-sinh chứng-nhập đạo vô-thượng-giác là “Chân-thực”.

Lại nữa, vì những chúng-sinh nhiều “tham, sân, si và đẳng-phận” mà phân-biệt, diễn nói ra mỗi thứ đến 2.100 Ba-la-mật và nhân gấp 10 lần thành 84.000 Ba-la-mật. Đó đều là hạnh lợi-tha. Những chúng-sinh nghe pháp mà tâm chưa điều-phục, nên nói 84.000 Tam-muội-môn đó là hạnh tự-lợi. Những chúng-sinh nghe pháp mà tâm chưa điều-phục nên nói 84.000 Đà-ra-ni-môn, đó là hạnh lợi-tha.

Chư Phật hiện-tại và vị-lai đều tu về 84.000 Ba-la-mật-môn, Tam-muội-môn, Đà-ra-ni-môn, mà dứt được 84.000 phiền-não-chướng, sở-tri-chướng vi-tế, thành vô-thượng-giác.

Khi đức Phật nói pháp ấy rồi, 84.000 Thiên-tử Đạo-lỵ chứng Hoan-hỷ-địa; vô số Thiên-tử trong Lục-dục-thiên ngộ Vô-sinh-nhẫn được Đà-ra-ni; 16 Quốc-vương được Đà-ra-ni; vô-lượng tứ-chúng được Bất-thoái-địa, hoặc được Tam-muội-môn, Đà-ra-ni-môn, đại-thần-thông. Hoặc có Bồ-tát chứng Tam-địa đến Thập-địa, vô-lượng Nhân, Thiên phát-tâm vô-thượng, 84.000 Nhân, Thiên xa lìa trần-cấu, được pháp-nhãn-tịnh.
 

 [1] Ba thứ Ba-la-mật-đa: Tức là “danh-tự (tên gọi), thân-cận và chân-thực Ba-la-mật”.

Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ”, đến chỗ “Ba-la-mật”, Bồ-tát Di-Lặc ngờ việc thực-hành hạnh Bồ-tát mới hỏi Phật, đức Phật giải rõ việc làm của hai hạng Bồ-tát: tại-gia và xuất-gia.

 [2] Mười hạnh: Tức 10 Ba-la-mật: Trong 1 Ba-la-mật nào cũng cần phải tinh-tiến mới thành-tựu được, nên “Tinh-tiến Ba-la-mật” nằm trong tất cả.

 [3] Biên-kiến: Tư-tưởng thiên về một bên.

 [4] Nhị-đế: Chân-đế và tục-đế (xin xem chú-giải trong quyển Bước đầu học Phật)

 [5] Ngũ minh: “Minh” là xiển-minh, nghĩa là làm cho nghĩa-lý, tư-tưởng rõ-rệt ra bằng cách có chứng-cứ. Lại, “Minh” là tên riêng của trí-tuệ, có nghĩa là y vào môn học nào đó mà trí-tuệ phát-minh. Đây là 5 môn học xưa của Ấn-độ: 1/ Thanh-minh (Sabdavidya): xiển-minh về ngôn-ngữ, văn-tự. 2/ Công-sảo-minh (Silpakar-masthànavidyà): xiển-minh về hết thảy công-ngệ, kỹ-thuật, toán-số, lịch-số v.v…3/ Y-phương-minh (Cikitsàvidà): xiển-minh về phương thuốc. 4/ Nhân-minh (Hetuvidyà): xiển-minh luận-lý-học, bàn-định về lẽ chính, tà, chân, ngụy. 5/ Nội-minh (Adhỳatmavidyà): xiển-minh tôn-chỉ của học-phái mình, tức là nội-điển từng học-phái, như Phật-giáo lấy Tam-tạng: kinh, luật, luận làm Nội-minh. Bốn minh trên là môn học chung cho tất cả, còn minh thứ năm là riêng biệt của từng phái.

 [6] Phương-tiện thắng-trí….: Trong 10 Ba-la-mật, có thể chia 5 Ba-la-mật trước thuộc về tu phúc, 5 Ba-la-mật sau thuộc về tu tuệ. Về tu tuệ coi Bát-nhã ba-la-mật như là căn-bản-trí, 4 Ba-la-mật sau như là Hậu-đắc-trí. Y nơi Bát-nhã, tu-tập những phương-pháp tiện-dụng độ-sinh làm cho trí-tuệ thù-thắng hơn lên là “Phương-tiện thắng-trí Ba-la-mật”.

 [7] Tha-tâm-trí: Trí-tuệ hiểu biết tâm người khác.

 [8] Đoạn trên, từ chữ “Dùng” tới chữ “cả” nói Bồ-tát được trí-tuệ, thần-thông, hiểu rõ nghiệp-tính chúng-sinh, Bồ-tát phát bi-nguyện lớn đi khắp mọi nơi, chữa bệnh cho chúng-sinh, làm cho chúng-sinh được thanh-tịnh và hiểu thấu đạo vô-thượng.

 [9] 4 lời thệ-nguyện rộng lớn: 1/ Chúng-sinh vô-biên thệ-nguyện độ. 2/ Phiền-não vô-tận thệ-nguyện đoạn. 3/ Pháp-môn vô-lượng thệ-nguyện học. 4/ Phật-đạo vô-thượng thệ-nguyện thành.

 [10] Đoạn trên, từ chỗ “Bồ-tát Di-Lặc bạch Phật rằng:” cho đến chỗ “Trí-ba-la-mật-đa” là nói rõ về 3 thứ của 10 Ba-la-mật:

1/ Bố-thí ba-la-mật-đa (Dànapàramità): cho của cải, thân-mệnh và nói pháp xuất-thế. 2/ Trì-giới ba-la-mật-đa (Silapàramità): giữ giới cấm, không hại sinh, không tiếc mình vì giữ giới và khuyên người phát tâm vô-thượng. 3/ Nhẫn-nhục ba-la-mật-đa (Ksàntipàramità): không hủy-nhục chúng-sinh…, khuyên người phát tâm vô-thượng. 4/ Tinh-tiến ba-la-mật-đa (Viryapàramità): luôn luôn tu-tiến, không tiếc thân-mệnh và nói đạo tối-thắng, khiến người nghe, tới vô-thượng-giác. 5/ Thiền-định ba-la-mật-đa (Dhyànapàramità): giữ chính-định, hóa chúng-sinh, nhập chân-pháp-giới; không tiếc thân-mệnh dạy chúng-sinh tu và nói pháp vi-diệu khiến chúng-sinh tới vô-thượng-giác. 6/ Bát-nhã ba-la-mật-đa (Prjnãpà-ramità) “Bát-nhã” Tàu dịch là “Tuệ”: Hiểu rõ chân-lý không tiếc thân-mệnh để cầu pháp; nói pháp không sẻn và, quán thấu diệu-lý bình-đẳng. 7/ Phương-tiện thiện-sảo ba-la-mật-đa (Upàyapàramità): Hiểu, giúp chúng-sinh; giúp chúng-sinh không tiếc mình và coi chúng-sinh bình-đẳng, nói pháp vi-diệu, khiến họ chứng-nhập Phật-trí. 8/ Nguyện ba-la-mật-đa (Pranidanapàrajat): Quán sự-vật là trung-đạo, không “có”, không “không”, tu tâm từ-bi, hiểu thấu việc đời và sự chúng-sinh đau khổ; dù bỏ thân mệnh để thực-hành đại-nguyện cũng không từ và nói pháp vi-diệu, làm chúng-sinh được bất-thoái-chuyển. 9/ Lực ba-la-mật-đa (Balapàramità) Dùng sức trí-tuệ làm chúng-sinh chứng-nhập Đại-thừa-pháp; dù bỏ thân-mệnh làm lợi-ích chúng-sinh cũng được và dùng diệu-lực làm cho bọn tà-kiến xu-hướng Niết-bàn. 10/ Trí ba-la-mật-đa (Jnànapàramità): Hiểu rõ các pháp, giữ vững trung-đạo: không chán sinh-tử, không thích Niết-bàn, có tâm đại-xả, thương xót chúng-sinh và dùng diệu-trí nói pháp Nhất-thừa, khiến chúng-sinh chứng-nhập đạo vô-thượng.

 [11] Đẳng-phận: Các phần bằng nhau. Trên kia đức Phật nói hoặc nhiều tham, nhiều sân, nhiều si nhưng, đây trong 3 phần tham, sân, si đều bằng nhau, không hơn kém, nên gọi là “Đẳng-phận”.

 [12] Đoạn trên, từ chỗ “Thiện-nam-tử”, đến chỗ “chính-giác”, đức Phật nói: do tham, sân, si, đẳng-phận mà thành 84.000 Ba-la-mật-môn, Tam-muội-môn và Đà-ra-ni-môn. Chư Phật do tu các môn ấy mà thành chính-giác.

 [13] Ba căn, chín phẩm loại: Tức thượng, trung, hạ-căn. Và, trong mỗi căn lại chia làm thượng, trung, hạ nữa thành ra 9 phẩm.

 [14] Hữu, không bất-nhị-môn: Đây nói: “có, không” (hữu, không) đều là một cửa trung-đạo, chẳng phải hai
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19872)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28987)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20697)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19456)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30526)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36455)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33249)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35584)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21003)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21931)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25275)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25813)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31276)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18576)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25153)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23785)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28956)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20885)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31462)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25556)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29730)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22535)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25735)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23301)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25757)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23737)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40620)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23360)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22470)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22105)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23518)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16973)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23297)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24324)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41121)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19010)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20506)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27739)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38135)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34088)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36804)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24021)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29209)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60176)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27630)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68759)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24544)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24512)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22733)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26383)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26558)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20831)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20079)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27579)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46466)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53597)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23624)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21107)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25604)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29288)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant