Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật dạy về tình bạn theo Kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt

22 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 19282)
Phật dạy về tình bạn theo Kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt

PHẬT DẠY VỀ TÌNH BẠN
THEO KINH GIÁO THỌ THI CA LA VIỆT
Chúc Phú

blankBạn bè là sự thể hiện sinh động cho mối quan hệ đặc thù giữa người với người. Mối quan hệ đó được thiết lập căn bản trên sự đồng đẳng hoặc bất đồng đẳng về giới tính, tuổi tác, chí nguyện, đam mê, sở thích,… là tiêu chí quan trọng để khẳng định nhân cách hoặc quan điểm sống của một con người.

Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng, và là một trong những nhân tố quan trọng, có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực lên bối cảnh sống cũng như khả năng thăng hoa tâm linh của một con người. Sống phải có bạn bè. Không có bạn bè, được xem là một trong năm điều bất hạnh đã được Đức Phật cảnh báo(1).

Phân loại đặc tính của một tình bạn tốt

Sự vận hành tất bật của dòng sống sinh động đã đưa con người đến với nhau. Có những mối gặp gỡ và liên hệ thoáng qua, có những mối gặp gỡ và liên hệ vững bền. Trong sự phong phú của các mối liên hệ và quan hệ đó, tình bạn xuất hiện. Do bởi đặc tính riêng của từng mối quan hệ và liên hệ nêu trên, tình bạn cũng được thể hiện với nhiều dạng thức phong phúsinh động.

Theo quan niệm thường tình, nếu căn cứ về phương diện hình thức thì tình bạn có thể tạm phân định ra những dạng như: bạn đường, bạn học, bạn đồng hương, bạn đồng nghiệp, bạn tri kỷ, bạn đời, bạn đạo, bạn đồng tu… Nếu xét riêng về phương diện giá trịtính chất, thì tình bạn có thể phân làm hai loại: bạn tốt và bạn xấu. Trong quan hệ bạn bè nói chung, hai tính chất này đóng vai trò quyết định cũng như xác định chiều hướng thăng hoa hay suy đọa của từng mối quan hệ.

Ở đây, mặc dù hình thứctính chất là hai yếu tố luôn hiện hữu bên nhau trong quan hệ bạn bè, tuy nhiên, hình thức là biểu hiện dễ thấy nhất. Bởi lẽ, đặc thù của điều kiện sinh hoạthoàn cảnh sống của con người đã tạo ra những hình thức bạn bè tương ứng. Do đó, để hiểu rõ thực chất về các mối quan hệ bạn bè, thì việc khảo sát về hình thứctính chất của từng mối quan hệ đó là những việc cần làm. Tuy nhiên, theo cảm quan của người viết, dù mang bất cứ hình thức nào đi chăng nữa, thì tính chất của mối quan hệ bạn bè là điều tối quan trọng, vì tính chất sẽ nói lên thực chất của mối quan hệ đó là gì. Và do vậy, bài viết chỉ tập trung khảo sát về tính chất, mà cụ thểtính chất tích cực, của các mối quan hệ bạn bè theo lời dạy của Đức Phật trong kinh điển.

Theo kinh Giáo thọ thi ca La việt - Sigalovada Sutta(2), mặc dù bạn bè có nhiều dạng thức khác nhau, nhưng thực chất bạn tốt thì không nhiều. Theo kinh văn, có bốn loại bạn tốt mà ta có thể bắt gặp trên cuộc đời, đó là:

Thứ nhất, là những người có thể che chở bản thân bạn và cả tài sản khi bạn vô ý phóng dật, là chỗ nương tựa khi bạn sợ hãi, giúp đỡ bạn thật nhiều khi bạn túng thiếu(3).

Đã là con người, ai cũng có đôi khi lâm vào tình cảnh yếu đuối, thế cô, mất kiểm soát bản thân cũng như tài sản. Cụm từ vô ý phóng dật thể hiện cho sự vô tình mất kiểm soát bản thân, trong việc sa đà vào những trò vui thông thường mà thế gian thường có. Một cuộc giao du thân hữu, một buổi liên hoan quá đà, khi tri giác bị mê mờ và thân thể oặt ẹo thì có khả năng bạn sẽ đối diện với bao nguy cơ bất an về sinh mệnh và cả tài sản. Sự hiện hữu của bạn tốt vào lúc này có thể giúp bạn vượt thoát khỏi tình cảnh nguy hiểm nêu trên.

Kế đến, sợ hãi là một thuộc tính tâm lý gắn kết với con người từ khi lọt lòng cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay. Thử hỏi, có mấy ai trên cuộc đời này không từng hơn một lần đối diện với một hoặc nhiều nỗi sợ hãi? Sợ thất nghiệp, sợ hết tiền, sợ ốm đau, sợ không đẹp, sợ già, sợ chết, sợ túng thiếu, sợ phản bội, sợ kẻ thù, sợ thiên tai…. Tuổi trẻ, trung niên và lão niên đều có những mối lo âu thường trực, gắn liền với từng chặng đường tuổi tác. Trong khi lâm vào hoàn cảnh sợ hãi đó, tâm bạn sẽ bối rối bất an và khổ đau là hệ quả kéo theo, làm khô cằn và héo úa tâm tư của bạn. Ở đây, một người bạn chân tình sẽ là chỗ dựa tin cậy, lắng nghe và sẻ chia, giúp bạn vượt qua trong từng nỗi sợ cụ thể.

Kế nữa, một người bạn tốt là người bạn có thể giúp bạn khi bạn lâm vào hoàn cảnh túng thiếu, khó khăn. Giúp một cách thật lòng và thật nhiều. Một người bạn tốt phải vượt qua quan niệm hoán đổi vật chất dung tục: bánh ít đi, bánh quy lại mà phải là cho đi không cầu mong nhận lại bao giờ. “Giúp đỡ cho bạn của cải gấp hai lần những gì bạn thiếu” đó là ý chính của nguyên ngữ kinh văn.

Thứ hai, một người bạn tốt luôn chung thủy với bạn, khi khổ cũng như khi vui, chia sẻ những điều sâu kín trong tâm tư mình và đồng thời giữ bí mật cho bạn, không bỏ bạn hoặc khinh thường khi bạn gặp khó khăn, dám hy sinh thân mạng vì bạn(4).

Tình bạn tốt là tình bạn được thử thách qua hoàn cảnhthời gian. Một tình bạn tốt là một tình bạn vẫn được giữ bền vững khi nghèo khó cũng như khi giàu sang. Trong nhân gian, hấp lực của của cải vật chất dễ làm chao đảo và thay đổi lòng người. Một tình bạn chân chính phải vượt qua sự cuốn hút đó cũng như phải tránh xa hiện thực: giàu đổi bạn mà người đời cực lực lên án. Thủy chung, như nhất với bạn, trước sao sau vậy là đức tính cần có của một tấm chân tình.

Kế đến, trải nghiệm bản thân để rút ra những tri thức quý giá là điều mà con người thường thực hiện. Do bởi việc tự thân trải nghiệm đôi khi phải trả giá bằng đau khổ của chính mình, cho nên chỉ có thể sẻ chia tri thức đó, và chỉ có thể sẻ chia những điều sâu kín trong lòng cho những ai là bạn thân.

Song song đó, giữ điều bí mật cho người cũng là đức tính mà người bạn tốt cần phải kiện toàn. Vì giữ bí mật cũng đồng nghĩa với việc bảo hộ thanh danh, tiếng tốt cho bạn. Nếu bạn gặp khó khăn, ta phải ra tay cứu giúp. Nếu bạn bị sa cơ thất thế, ta cần phải lân mẫn quan tâm, không được coi thường hay khinh rẻ bạn.

đặc biệt, một đức tính được thắp lên chất ngất sáng ngời, là dấu hiệu cao cả của một tình bạn tốt, đó là dám hy sinh thân mạng vì bạn. Ai cũng rõ, cái quý nhất trên cuộc đời là sinh mạng, là sự sống. Sự sống là giá trị duy nhất không thể có cái thứ hai. Đó cũng là điều dễ hiểu để lý giải tại sao đôi khi người ta bất chấp tất cả, miễn làm sao giữ được sinh mạng của chính mình. Dám hy sinh cái duy nhất, cái quý nhất đó là một điều mà người bạn tốt có thể thực hiện. Kiện toàn được tiêu chuẩn này, thì khoảng cách vươn tới chân lý Vô ngã không còn xa. Không những lần đầu tiên xuất hiện trong kinh Phật, đọc lại lịch sử phát triển của nhân loại, Đông cũng như Tây, ở quá khứ cũng như hiện tại, gương hy sinh vì bạn bao giờ cũng được tán thán và tôn vinh.

Thứ ba, một người bạn tốt phải biết khuyến khích bạn làm điếu tốt, ngăn chặn bạn làm điều xấu ác, chỉ bày bạn những điều bạn chưa hiểu, chia sẻ và đưa ra những lời khuyên bổ ích, hướng bạn vươn lên những cõi thiện, lành(5).

Làm người thì vẫn chưa đủ, mà phải là làm người tốt. Bạn bè cũng vậy, tình bạn tốt khác với tình bạn thông thường ở chỗ, đó là phải nỗ lực khuyên bảo bạn làm điều tốt, ngăn chặn, không cho bạn làm điều xấu, điều không hay. Có như vậy, ý nghĩa hỗ tương lẫn nhau của một tình bạn được thể hiện. Có thể, sự khuyên răn của ta đôi khi làm bạn bực dọc, chán ngán, nhưng một khi đời sống của bạn có sự chuyển hóa thật sự từ sự khuyên răn kia, tất sự hàm ơn sẽ xuất hiện trong tâm của bạn. Và như vậy, tính tương hỗ, keo sơn của bạn bè thân hữu, sẽ được thăng hoa lên cung bậc mới. Đó cũng là điều được khẳng định trong kinh Dhananjani(6): người vì bạn bè thân hữu làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, người ấy tốt đẹp hơn. Là một người bạn tốt, thì cần phải sẻ chia cho nhau, không những phương diện vật chất mà con cả phương diện tinh thần. Ở đây, bạn tốt phải là người sẻ chia tri thức, kinh nghiệm. “Học thầy không tày học bạn”. Dân gian đã khái quát giá trị đó thành một phương châm kiện toàn kiến thức hữu hiệu cho mọi người.

Hơn thế nữa, sự gần gũi, sự thấu hiểu, sự cảm thông lẫn nhau giữa một tình bạn tốt, là điều kiện thuận lợi để có thể đưa ra những lời khuyên phù hợp và bổ íchTăng Chi(7). Ở đây, chỉ có bạn bè, thường là người đầu tiên đưa ra lời khuyên kịp thời cho bạn nhất. trong những tình huống đời thường. Một lời khuyên kịp thời và bổ ích đôi khi cứu được sinh mạng của một con người hoặc có khả năng chuyển hóa một tâm trạng bế tắc, cùng quẫn. Cũng vì vậy, giá trị của lời nói đúng lúc, đúng thời được đánh giá rất cao trong kinh

Và chuẩn mực cuối cùng, một người bạn tốt phải là người có chí nguyện hướng thượng, thanh cao và cùng đưa bạn vươn lên thực hiện chí nguyện đó. Không thân cận kẻ ngu/ Nhưng gần gũi bậc trí/ Ðảnh lễ người đáng lễ/ Là điềm lành tối thượng(8).

Thứ tư, một người bạn tốt phải là người lấy khổ đau và hạnh phúc của bạn làm khổ đau hay hạnh phúc của mình; ngăn chặn những ai nói xấu bạn và tán thán những ai ca ngợi bạn(9).

Vui với niềm vui của bạn và buồn khi bạn gặp chuyện bất an là tâm thế cần có của một người bạn tốt. Bạn vui thì mình vui là điều dễ thực hiện, nhưng khi bạn buồn đòi hỏi mình phải có một thái độ phù hợp để sẻ chia. Nguyên văn của kinh là: “Không hoan hỷ khi bạn gặp hoạn nạn; hoan hỷ khi bạn gặp may mắn”. Ở đây, ý nghĩa tích cực của cụm từ không hoan hỷ đồng nghĩa với việc ra tay tương trợ khi bạn gặp hoạn nạn. Khi hoạn nạn mới biết ai là bạn. Quan niệm phổ thông và thường tình đó của thế gian dường như là sự biến tấu nhiệm mầu về chân lý tình bạnĐức Phật đã dạy từ lâu trong kinh điển.

Một người bạn lý tưởng thì luôn sẵn sàng lăn xả khi bạn của mình gặp hiểm nguy, vì lằn ranh giữa bạn và ta vốn dĩ rất nhạt nhòa cho một tình bạn thực lòng và đúng nghĩa.

Mặt khác, khi sống trong cuộc đời, ai cũng từng đối diện với tám ngọn gió của thế gian, như: lợi danh và thất bại, tiếng xấudanh thơm, tán thánchỉ trích, hạnh phúc và khổ đau(10). Nói xấu nhau cũng như ca ngợi nhau là hai trong tám ngọn gió đời có thể làm xáo trộn và đôi khi gây ra sự biến loạn trong đời sống của một con người. Ngăn chặn ai đó nói xấu bạn cũng như tán thán ai đó khen ngợi bạn, là minh chứng sinh động của một tình bạn tốt.

Vài suy nghĩ về một tình bạn vững bền

Tìm kiếm và có được một người bạn tốt là hạnh phúc cho bất cứ ai khi sống trên cuộc đời này. Tuy nhiên, không phải ai cũng có may mắn đó. Trong trường hợp tìm mãi mà vẫn không gặp bạn hiền, thì cần phải suy ngẫm thêm từ những lời dạy của Đức Phật trong kinh Tiểu Bộ: Nếu không được bạn lành/ Thận trọng và sáng suốt/ Bạn đồng hành chung sống/ Bạn thiện trú hiền trí/ Hãy như vua từ bỏ/ Ðất nước bị bại vong/ Hãy sống riêng một mình/ Như tê ngưu một sừng(11). Sống một mình tuy cũng buồn và bất tiện về nhiều mặt, nhưng thực ra vẫn còn tốt hơn khi sống chung với người không tốt. Mặt khác, sống riêng một mình vẫn là một cơ hội để bạn trải nghiệm cảm giác tự chủtự do như con tê ngưu một sừng, tự tại bình yên giữa chốn rừng xanh.

Kế đến, tìm bạn để chơi vốn là điều khó và càng khó hơn để nhận ra đâu là người bạn tốt để đặt niềm tin tưởng, sẻ chia. Để thiết lập một tình bạn đúng nghĩa và chân thành, chúng ta đừng để cái vỏ hào nhoáng của hình thức bề ngoài chi phối. Vì lẽ, vẻ bề ngoài chưa thể phản ánh đúng giá trị đích thực của một con người. Không phải do sắc tướng/ Biết rõ được con người/ Không phải nhìn thoáng qua/ Ðặt được lòng tin cậy/(12). Từ việc biết bạn, hiểu bạn đến tin bạn là cả một quá trình dài. Trong quan hệ bạn bè, niềm tin là một yếu tố quan trọng, bởi lẽ niềm tin là một trong những cơ sở của đạo đức. Xã hộiniềm tinxã hộiđạo đức, bạn bè có niềm tin thì tình bạn mới vững bền. Tuy nhiên, niềm tin muốn đặt đúng chỗ, đúng người, là điều cần phải cân nhắc, cần phải có sự thẩm sát của lý trí, trí tuệ. Hiểu bạn để rồi tin bạn, là một trong những yêu cầu bắt buộc để có được một tình bạn vững bền. Vì lẽ, khi chơi với bạn nhưng không hiểu bạn thì tình bạn đó có nguy cơ tan rã rất cao.

Thứ ba là sự tương ưng, mà nghĩa gần nhất là giống nhau, cùng chung nhau, tương tự như nhau. Ở đây, nghĩa rộng nhất liên hệ đến thuật ngữ Phật học gọi là đồng sự13, giữ một vai trò quan trọng cho một tình bạn vững bền. Tiêu chuẩn tương ưng đặt ra ở đây là tương ưng về nhận thức, tương ưng về đạo đức, tương ưng về nghiệp lựctương ưng trong việc phóng xả, vị tha(14).

Trước hết, sự tương đồng về nhận thức, về tri thức, về kiến giải là cửa ngõ để tạo nên một sự thấu hiểu, cảm thông giữa hai người. Nhận thức, tri thức ở đây không hẳn là sự thông minh, sáng tạo mang tính trường lớp. Nhận thức, tri thức ở đây cần được hiểu như là sự hiểu biết nhất định, có thể do học tập, có thể do tự rèn luyện về một hoặc nhiều lãnh vực nào đó của đời sống. Không tương đồng về nhận thức, tri thức là mấu chốt tạo ra mọi sự khập khiễng ở tất cả các mối quan hệ.

Bên cạnh sự thấu hiểu, cảm thông, một người bạn hiền cần phảiđức hạnh tốt. Đức hạnh là sự tự chế ngự, tự kiểm soát bản thân mình, tuân hành những nguyên tắc sống đem đến sự an lạc cho mình cũng như cho người. Đức hạnh được ví như tài sản riêng có của một con người mà không có thể quy đổi và tạo ra một sắc thái, hấp lực riêng trong mắt của bạn bè.

Sự tương ưng tiếp theo là sự tương ưng về hành nghiệp. Những người có cùng sở thích, cùng đam mê, cùng xu hướng dễ gần gũi nhau hơn. Đây là một trong những yếu tố đáng lưu tâm để xây dựng một tình bạn tốt đẹpbền vững.

cuối cùng, đức tính hào phóng, hỷ xả, vị tha là một trong những tố chất để xây dựng một tình bạn tốt đẹp. Sẽ rất bất hạnh cho một tình bạn nếu như người kia chỉ biết có bạn và có mình. Sống phóng xả, vị tha là chất liệu cần có của một tình bạn đẹp. Vì lẽ, tính phóng xạ, vị tha còn được xem là một trong liên hệ gần với bốn đức tính tối quan trọng mà Phật giáo gọi là Bốn tâm vô lượng.

Lưu ý cuối cùng, lựa bạn mà chơiquan niệm thường tình trong nhân gian. Quan niệm đó thật đúng khi được soi rọi bằng ánh sáng tuệ giác từ kinh điển: Người gần kẻ hạ liệt/ Rồi cũng bị hạ liệt/ Thân cận người đồng đẳng/ Ðược khỏi bị thối đọa/ Ai gần bậc thù thắng/ Mau chóng được thăng tiến/ Do vậy hãy sống chung/ Bậc ưu thắng hơn mình15. Có một lưu ý nhỏ từ đoạn kinh văn trên. Vì trong khi thiết lập quan hệ bạn bè, nếu như ai cũng chọn đối tượng hơn mình về tất cả các mặt, thì thử hỏi người ưu việt kia, làm sao có thể bằng lòng chọn một người thấp hơn mình để mà chơi được? Vả lại, với người thấp kém kia, mãi mãi không có khả năng vươn lên vì không ai dám kết bạn cùng họ? Cần phải thấy rằng, bạn bè là sự tổng hòa đồng điệu của những yếu tố ngang bằng nhau, giống nhau và bình đẳng như nhau về một hoặc nhiều phương diện. Nếu quá cách biệt nhau thì chưa thể gọi là quan hệ bạn bè mà có thể rơi vào những dạng quan hệ khác, đan xen nhau trong cuộc sống này. Chính vì vậy mà ta có thể thấy người hạ liệt vẫn có bạn hạ liệt và kẻ thanh cao vẫn có bạn thanh cao. Ở đây, tính tối ưu tối thắng của người cần được hiểu rằng: tuy đồng chất, đồng hàng với nhau, nhưng trong mỗi con người, ai cũng có những giá trị tích cực riêng có. Thấy được điều ưu thắng đó từ bạn bè và nỗ lực học tập, là tâm thế tích cực của một tình bạn tốt. Nói rõ hơn, bạn bè ai cũng có những điều hay, là bạn tốt, cần phải học những điều hay từ bạn bè để tự mình hoàn thiện.

Cuộc đời có bao nhiêu mối quan hệ thì có bấy nhiêu dạng bạn bè. Mặc dù trong mỗi mối quan hệ bạn bè hiện hữu nhiều tính chất khác nhau. Thế nhưng hai tính chất căn bảnthen chốt, có mặt hầu hết trong các mối quan hệ bạn bè, đó là bạn tốt và bạn xấu. Bạn xấu thì phong phú đa dạng và hầu như khó có thể liệt kê ra hết. Bạn tốt thì ít và khó phát hiện.

Trong thời đại ngày nay, khi những giá trị đạo đức căn bản của đời sống con người đang rung lên những hồi chuông báo động, thì những chất liệu biểu trưng cho một tình bạn tốt, được thể hiện trong kinh Giáo thọ thi ca la việtchúng ta vừa khảo sát ở trên, vẫn mang tính thời sự hơn bao giờ hết. Thực tế đó, một lần nữa xác tín rằng, những chân lý trong giáo pháp của Đức Phật, dù liên hệ đời thường, nhưng tất cả đều chiếu sáng rực rỡ khi được khám phá ra(16). 

 

(1) Kinh Tăng Chi, chương Năm pháp, phẩm Du hành dài, kinh Du hành dài: Có năm điều nguy hại, này các Tỷ-kheo, cho người sống du hành dài, du hành không có mục đích. Thế nào là năm? Không nghe điều chưa được nghe; không làm cho thanh tịnh điều đã được nghe; có sợ hãi một phần điều đã được nghe; cảm xúc bệnh hoạn trầm trọng; không có bạn bè.

(2)  Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, kinh Trường Bộ, tập 2, Kinh giáo thọ thi ca la việt. Nxb. TP. HCM, 1991, tr 539

(3) Kinh Trường Bộ, Sđd, đoạn 22

(4) Kinh Trường Bộ, Sđd, đoạn 23

(5) Kinh Trường Bộ, Sđd, đoạn 24

(6) Kinh Trung Bộ, tập 2, kinh số 97, kinh Dhananjani.

(7) Kinh Tăng Chi, chương Năm pháp, phẩm Hiềm hận: “Tôi sẽ nói đúng thời, không phải phi thời”; “Tôi sẽ nói chơn thật, không phải phi chơn thật”; “Tôi sẽ nói nhu hòa, không phải thô bạo”; “Tôi sẽ nói lời liên hệ đến lợi ích, không phải lời không liên hệ đến lợi ích”; “Tôi sẽ nói với từ tâm, không phải với sân tâm”.

(8) Kinh Tiểu Bộ, kinh Tập, kinh Điềm lành lớn (kinh Đại hạnh phúc - Maha Mangala Sutta)

(9) Kinh Trường Bộ, Sđd, đoạn 25.

(10) Kinh Tăng Chi, chương Tám pháp, kinh Tùy chuyển thế giới. Nguyên văn: Lợi dưỡng và không lợi dưỡng, danh vọng và không danh vọng, tán thánchỉ trích, lạc và khổ.

(11) Kinh Tiểu Bộ, kinh Tập, phẩm Rắn, kinh Con tê ngưu một sừng.

(12) Kinh Tương Ưng, tập 1, Thiên có kệ, chương Ba, Tương ưng Kosala, phẩm thứ hai, Bện tóc

(13) Kinh Tăng Chi, chương Bốn pháp, phẩm Bánh xe, kinh Nhiếp pháp.

(14) Xem thêm, kinh Tăng Chi, chương Bốn pháp, phẩm Nguồn sanh phước, kinh Xứng đôi. Nguyên văn: cả hai người là đồng tín, đồng giới, đồng thí, đồng trí tuệ.

(15) Kinh Tăng Chi, chương Ba pháp, phẩm Người, kinh Cần phải thân cận.

(16) Xem thêm, kinh Tăng Chi, chương Ba pháp, phẩm Kusinara, kinh Che giấu.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49768)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34645)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33463)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43944)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57097)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47582)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39428)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38489)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52962)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36614)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32252)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40499)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43505)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31476)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46722)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36218)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28718)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29257)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31904)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28848)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33387)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29161)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60999)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39789)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26698)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29691)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37405)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40107)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26858)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42690)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37292)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28306)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28907)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26410)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27177)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26202)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34693)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27827)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30491)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33304)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28575)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30085)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25495)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21858)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51332)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26741)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28638)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27724)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24367)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27471)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31963)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30200)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27721)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35478)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27471)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30027)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31796)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23039)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24194)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23042)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant