Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Phẩm thứ nhất: Tự thuật

11 Tháng Tám 201100:00(Xem: 11999)
1. Phẩm thứ nhất: Tự thuật

KINH PHÁP BẢO ĐÀN
HUỆ NĂNG LỤC TỔ

Soạn thuật: Pháp Hải - Dịch giả: Thích Nữ Trí Hải

PHẨM THỨ NHẤT
TỰ THUẬT

Khi Đại sư đến Bảo Lâm, quan thứ sử họ Vi ở Thiều Châu cùng các quan liêu vào núi thỉnh Sư đến đô thành thuyết phápgiảng đường chùa Đại Phạm. Sau khi Sư thăng pháp tòa, quan Thứ sử cùng các quan thuộc hơn ba mươi người, trí thức nho sĩ trên ba mươi người, Tăng ni Phật tử hơn một ngàn người, đồng thời đảnh lễ Sư, xin nghe yếu chỉ Phật pháp. Đại sư bảo chúng:

“Thiện tri thức! Tự tánh Bồ đề xưa nay thanh tịnh, chỉ cần sử dụng tâm ấy tức thì thành Phật. Thiện tri thức! Xin hãy nghe qua tông tích và việc đắc pháp của tôi. Huệ Năng nghiêm phụ quê ở Phạm Dương, bị giáng chức đày đến Lãnh Nam làm dân thường ở Tân Châu. Tôi xuất thân bất hạnh, cha mất sớm, một mình ở với mẹ già, gian khổ nghèo cùng, làm nghề bán củi ở chợ. Bấy giờ có khách mua củi, sai gánh đến nhà, khi đưa củi đến nhà cho khách, nhận tiền xong tôi bước ra khỏi cửa bỗng thấy có người đang tụng Kinh. Vừa nghe qua lời Kinh, tâm liền khai ngộ, tôi hỏi khách tụng Kinh gì. Đáp: Kinh Kim Cang. Lại hỏi: Khách từ đâu đến tụng Kinh này, khách bảo: “Tôi người huyện Hoàng Mai, chùa Đông Thiền do Đại sư Hoằng nhẫn, Tổ thứ năm thiền tông, đang trụ trì giáo hóa, môn nhân trên số nghìn. Tôi đến lễ bái Đại Sưthọ trì Kinh này. Đại sư thường dạy tại giaxuất gia chỉ cần trì Kinh Kim Cang thì thấy tánh thành Phật”. Huệ Năng nghe nói tự biết mìnhtúc duyên với Phật pháp. Lại nhờ một người cho mười lạng bạc để cấp dưỡng mẹ già, bảo nên đến Hoàng Mai tham lễ Ngũ Tổ. Huệ Năng thu xếp cho mẹ già xong, liền từ biệt mà đi. Không quá ba mươi ngày đã tới Hoàng Mai, lễ bái Ngũ Tổ, Tổ hỏi:

- Ngươi là người phương nào? Đến đây muốn cầu chuyện gì?

Huệ Năng đáp:

- Đệ tửthường dân ở Tân Châu, đất Lãnh Nam. Từ xa đến bái kiến Đại sư, chỉ cầu làm Phật mà thôi, không cầu chuyện gì khác.

Tổ dạy:

- Ngươi là người đất Lãnh Nam, lại là kẻ quê mùa, sao làm Phật được?

Huệ Năng thưa:

- Bạch Hòa thượng, người có nam bắc, chứ Phật tánh không có bắc nam. Thân quê mùa của con không giống với thân Hòa thượng, nhưng Phật tánh nào có khác gì?

Ngũ Tổ còn muốn nói thêm, nhưng thấy đồ chúng đứng cả hai bên, bèn bảo Huệ Năng hãy theo chúng làm việc. Năng thưa:

- Đệ tử xin bạch Hòa thượng: Đệ tử tự tâm thường sanh trí huệ, không rời tự tánh, đấy là phước điền. Chẳng hay Hòa thượng còn dạy làm việc chi nữa?

Tổ bảo:

- Chà, cái tên quê mùa này căn tánh thật là sắc sảo! Thôi, ngươi chớ nói nữa, hãy xuống nhà xay đi.

Huệ Năng lui ra nhà sau, gặp một vị hành giả sai bửa củi, đạp chày. Hơn tám tháng, một hôm Tổ nhác thấy, bảo:

- Ta nghĩ cái kiến giải của con có thể dùng được. Nhưng vì sợ ác nhân hại con, nên ta không nói con việc ấy. Con có biết không?

Huệ Năng bạch:

- Dạ, đệ tử cũng biết được tôn ý nên không dám đi lên nhà trên, để khỏi ai biết.

Một ngày kia Tổ gọi đồ chúng:

- Lại tất cả đây, ta có chuyện này báo các ngươi. Người đời sanh tử là việc lớn, các người suốt ngày chỉ cầu phước, mà không cầu thoát ra khỏi biển khổ sanh tử. Tự tánh nếu mê, thì phước nào cầu được? Các người hãy tự quán sát trí tuệ mình, đem cái tánh Bát nhã của bản tâm mà làm một bài kệ cho ta xem. Ai ngộ được đại ý Phật pháp, thì ta trao y bát cho, làm đệ Lục Tổ. hãy mau lên, không được trì hoãn. Suy nghĩ tức không trúng. Người kiến tánh nói ra là thấy liền. Nếu đã thấy tánh, thì đang múa đao ra trận cũng thấy được.

Chúng nghe xong bàn nhau rằng, chúng ta chẳng cần dụng tâm làm kệ trình Hòa thượng làm gì, đã có Thượng ọa Thần Tú nay là thầy dạy chúng ta, chắc chắn vị ấy được phú y pháp. Chúng ta có làm kệ cũng chỉ uổng công mà thôi. 

Mọi người nghe lời ấy đều gác bỏ việc làm kệ, bảo nhau, từ nay về sau chúng ta hãy cứ nương theo Thượng tọa Thần Tútu hành, cần gì trình kệ.

Thần Tú suy nghĩ: “Mọi người không ai trình kệ, vì cho rằng ta là thầy dạy họ. Vậy ta nên làm kệ đem trình Hòa thượng, nếu ta không trình, thì làm sao biết được kiến giải của ta sâu cạn thế nào. Ý ta muốn trình kệ để cầu pháp thì tốt, nhưng để cầu chức vị Tổ thì không tốt, có khác gì đem tâm phàm phu muốn đoạt lấy địa vị bậc Thánh? Nhưng nếu ta không trình kệ thì rốt cuộc không bao giờ đắc pháp. Thật khó xử, khó xử!”.

Trước phòng Ngũ Tổ có khoảng hành lang, Tổ muốn mời quan Cung phụng Lô Trân đến họa những cảnh biến hóa trong Kinh Lăng Già, và biểu đồ hệ thống đắc pháp của năm vị Tổ để lưu truyền cúng dường. Thần Tú làm kệ xong, nhiều lần muốn đem trình, nhưng mỗi lần đi đến trước phòng Ngũ Tổ thì trong lòng lại run sợ, khắp mình toát mồ hôi, không trình được. Trải qua bốn ngày như vậy, mười ba lần đến trước hành lang, mà vẫn không trình kệ được. Thần Tú nghĩ: “Nay ta cứ viết lên vách hành lang, để Hòa thượng xem. Nếu Ngài dạy được thì ta sẽ ra đảnh lễ nhận là Thần Tú làm, còn nếu Ngài phê không xong, thì như vậy chứng tỏ ta đã uổng công bao nhiêu năm tu hành, nhận người lễ bái mà nào có ra chi”.

Canh ba đêm ấy, Thần Tú một mình cầm đèn đi đến vách hành lang phía nam, viết lên bài kệ trình bày chỗ kiến giải của mình:

Thân thị Bồ đề thọ
Tâm như minh cảnh đài
Thời thời cần phất thức
Vật sử nhá trần ai.

(Thân là cây Bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Thường hãy siêng lau chùi
Chờ để bụi dơ bám).

Viết kệ xong Thần Tú về phòng, không ai hat biết. Tú lại nghĩ: “Ngày mai Ngũ Tổ thấy bài kệhoan hỷ, tức ta có duyên với Phật pháp. Nếu Ngài dạy không xong, ấy là tự ta mê muội, nghiệp chướng đời trước nặng nề, không đáng đắc pháp. Thánh ý thật khó lường thay!”. Trong phòng một mình lo nghĩ, nằm ngồi không an cho đến canh năm. Tổ đã biết Thần Tú chưa vào được của đạo, không thấy tự tánh. Sáng hôm sau, Tổ gọi quan Cung phụng đến vẽ các đồ hình trên vách hành lang phía nam, bỗng Ngài thấy bài kệ, liền bảo:

- Quan Cung phụng, thôi, chẳng cần họa nữa. Thật phiền cho ông từ xa xôi đến, nhưng Kinh dạy, phàm cái gì có tướng đều hư dối, chỉ nên để lại bài kệ này cho mọi người trì tụng. Theo kệ này tu, thì được lợi ích lớn.

Bèn sai môn nhân đốt hương lễ kính, và bảo mọi người hãy tụng bài kệ ấy sẽ được kiến tánh. Môn nhân tụng kệ đều tấm tắc khen hay. Canh ba đêm ấy, Tổ gọi Tú vào phòng, bảo:

- Bài kệ ấy ông làm phải không?

Tú bạch:

- Dạ, chính con làm. Đệ tử không dám vọng cầu Tổ vị, chỉ mong Hòa thượng từ bi xét xem đệ tử có chút trí tuệ nào không?

Tổ dạy:

- Bài kệ ấy chưa thấy tánh, chỉ mới ở ngoài cửa, chưa vào được bên trong. Đem cái kiến giải ấy mà cầu Vô thượng Bồ đề thì hoàn toàn không thể được. Vô thượng Bồ đề là cốt phải ngay nơi lời nói mà biết được bản tâm, thấy được cái bản tánh không sanh, không diệt. Trong tất cả thời, luôn luôn thấy tánh, vạn pháp không làm ngăn ngại, một chơn hết thảy đều chơn, vạn cảnh như như thanh tịnh. Cái tâm như như bình đẳng ấy mới là chơn thật. Nếu thấy như vậy, thì chính đó là tự tánh Vô thượng Bồ đề. Thôi ông hãy lui ra, suy nghĩ thêm vài ngày, làm bài kệ khác đem đến ta xem. Nếu kệ của ông vào được cửa đạo thì ta sẽ trao y pháp cho ông.

Thần Tú đảnh lễ lui ra, trải qua mấy ngày làm kệ không thành, trong lòng lo sợ, tinh thần bất an, như người trong mộng đứng ngồi không vui.

Lại vài ngày sau có chú tiểu đi ngang nhà giã gạo đọc lớn bài kệ. Huệ Năng nghe qua biết bài kệ ấy chưa thấy bản Tánh. Tuy chưa được mong ân giáo hóa mà Năng đã sớm biết đại ý Phật pháp, bèn hỏi đồng tử tụng kệ gì đó. Chú tiểu bảo:

- Cái anh quê mùa này không biết gì cả, Đại sư có dạy người đời sanh tử là việc lớn, Ngài muốn truyền y pháp nên bảo mọi người làm kệ đến trình Ngài xem, ai ngộ đại ý Phật pháp sẽ được trao y pháp làm đệ Lục Tổ. Thượng tọa Thần Tú có viết bài kệ Vô tướng trên vách hành lang phía nam, Đại sư bảo mọi người tụng theo kệ ấy tu thì khỏi đọa ác đạo, theo kệ ấy tu sẽ được lợi ích lớn.

Huệ Năng bảo:

- Thưa thượng nhân, tôi đạp chày đã hơn tám tháng chưa từng lên đến nhà trên, xin thượng nhân dẫn dắt cho tôi đến trước bài kệ để lễ bái.

Chú tiểu dẫn Huệ Năng đến trước bài kệ để làm lễ. Huệ Năng bảo:

- Tôi không biết chữ, xin thượng nhân đọc cho tôi nghe.

Khi ấy có quan Biệt giá đất Giang Châu họ Trương tên Nhật Dụng đứng bên bèn lớn tiếng đọc. Huệ Năng nghe xong bèn nói:

- Tôi cũng có một bài kệ, xin nhờ quan Biệt giá viết giùm.

Quan Biệt giá nói:

- Anh này mà cũng làm kệ ư! Việc này thật ít có.

Huệ Năng bào quan Biệt giá:

- Muốn học đạo Vô thượng Bồ đề, thì không nên khinh kẻ sơ học. Người hạ lưu đôi khi có trí bậc thượng mà người thượng lưuthể không có chút trí tuệ nào.

Quan Biệt giá nói:

- Thôi, anh cứ đọc kệ đi, tôi viết cho. Nếu anh đắc pháp, hãy độ cho tôi trước, chớ quên lời này.

Huệ Năng đọc kệ rằng:

 Bồ đề bổn vô thọ
Minh cảnh diệc phi đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà sứ nhạ trần ai.

(Bồ đề vốn không cây
Gương sáng cũng không đài
Xưa nay không một vật
Thì bụi bám vào đâu).

Viết xong bài kệ, đồ chúng đều kinh ngạc bảo nhau:

- Lạ thay! Quả không nên xem tướng đoán người. Đâu được sai sử vị nhục thân Bồ tát này mãi như vậy!

Tổ thấy mọi người kinh ngạc tán thán, sợ có kẻ hại bèn lấy giày chà bài kệ mà bảo:

- Bài này cũng chưa thấy tánh.

Chúng đều cho là phải [2].

Hôm sau, Tổ lặng lẽ xuống nhà dưới, thấy Huệ Năng nai lưng giã gạo liền dạy:

- Người cầu đạo phải gian khổ như thế. Và tiếp hỏi: Gạo giả trắng chưa?

Huệ Năng đáp:

- Dạ trắng đã lâu, chỉ cần người sàng sảy.

Tổ lấy tích trượng gõ cối ba lần rồi bỏ đi. Huệ Năng hiểu ý, canh ba đêm ấy Huệ Năng vào phòng Tổ. Tổ dùng tấm cà sa vây che không cho người thấy (ánh đèn), đạon đọc Kinh Kim cang cho nghe. Đến chỗ “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Huệ Năng hoắc nhiên đại ngộ, hết thảy vạn pháp không lìa tự tánh, bèn bạch Tổ rằng:

- Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, vốn không sanh diệt, vốn tự đầy đủ, vốn không lay động, có thể sanh muôn pháp.

Tổ biết Năng đã ngộ bản tánh, bảo:

- Không biết bản tâm, thì học đạo vô ích. Nếu biết được tự tâm, thấy được bản tánh, tức thành bậc trượng phu, thầy của trời, người – Phật.

Huệ Năng thọ pháp vào lúc nửa đêm không ai hay biết. Tổ truyền pháp môn đốn ngộy bát, bảo:

- Ngươi nay là đệ Lục Tổ, hãy khéo tự giữ gìn, rộng độ chúng sanh, truyền bá cho đời sau, chớ để đứt mất giống Phật. Hãy nghe, kệ của ta đây:

 Hữu tình lai hạ chủng
Nhân địa quả hoàn sanh
Vô tình diệc vô chủng
Vô tánh diệc vô sanh.

Tổ lại bảo:

- Xưa khi Đạt Ma mới đến Trung Hoa, người ta chưa tin nên mới truyền y này để làm tin1 thể. Chứ các thế hệ Tổ sư ngày xưa truyền pháp đều lấy tâm truyền tâm, để tự ngộ tự giải. Từ ngàn xưa chư Phật cũng chỉ truyền bản thể, chư Tổ mật phó bản tâm. Còn y là đầu mối của tranh chấp, đến ngươi thì hãy thôi, chớ truyền nữa. Nếu truyền y này, thì tánh mạng như chỉ mành treo chuông. Ngươi nên đi ngay kẻo có người hại.

Huệ Năng bạch:

- Bây giờ con nên đi về đâu?

Tổ dạy:

- Gặp đất Hoài thì đừng, gặp đất Hội thì ẩn.

Nửa đêm hôm ấy Năng nhận y bát ra đi, Ngũ Tổ tiễn chân đến bờ sông Cửu Giang. Tổ cùng Huệ Năng lên thuyền. Huệ Năng cầm chèo Tổ bảo:

- Để ta độ con mới phải.

- Khi mê thì thầy độ, ngộ rồi con phải tự độ. Cái danh từ “độ” tuy một mà cách dùng khác nhau. Huệ Năng sanh chốn biên địa tiếng nói không sửa, nhờ ơn thầy phú pháp nay đã được ngộ, thì chỉ nên tự tánh tự độ mà thôi!

Tổ dạy:

- Chính thế! Chính thế! Từ nay về sau, Phật pháp sẽ do con mà đại thạnh. Bây giờ, con hãy nổ lực đi về hướng nam. Không nên thuyết pháp sớm, sợ sẽ gặp nạn khởi trong Phật pháp.

Huệ Năng từ biệt Tổ, trực chỉ hướng nam, hai tháng sau đến núi Đại Dũ.

Ngũ Tổ trở về, vài hôm sau không ra giảng đường. Chúng nghi, đến hỏi:

- Hòa thượng có đau ốm gì chăng?
- Đau thì không đau, nhưng y bát đã đi về phương nam.
Chúng hỏi:
Ai được truyền thọ?
Đáp:

- Ai có khả năng thì được. (“Năng giả đắc chi” cũng có thể hiểu: Chính Năng ấy được).

Vài trăm người trong chúng đuổi theo để đoạt lại y bát. Một vị Tăng tục tánh Trần, tên Huệ Minh, trước làm tứ phẩm tướng quân, tánh tình hung hãn, quyết chí đuổi cho được, dẫn đầu cả bọn đuổi kịp Huệ Năng. Năng ném y bát trên phiến đá, bảo:

- Y bát này là tín biểu, há đem vũ lực mà đoạt được sao?

Nói xong ẩn vào lùm cây. Huệ Minh đến nhấc không lên, bèn nói lớn:

- Hành giả! Hành giả! Tôi vì pháp mà đến chẳng phải vì y.

Năng bèn bước ra ngồi trên tảng đá, Huệ Minh làm lễ, bạch:

- Mong hành giả thuyết pháp cho tôi.

Huệ Năng bảo:

- Ông đã vì pháp mà đến thì hãy đình chỉ mọi duyên, chớ sanh một niệm. Tôi sẽ nói cho.

Một lát, Huệ Năng bảo:

- Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, ngay ngay lúc ấy cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Huệ Minh?

Huệ Minh ngay lời nói ấy mà đại ngộ, lại hỏi:

- Còn có mật ý gì không?

Huệ Năng bảo:

- Cái ta nói cho ông được thì không còn là mật. Nếu ông tự phản chiếu, thì mật ý ở ngay bên ông.

Minh bảo:

- Huệ Minh tuy ở Hoàng Mai đã lâu mà chưa ngộ được diện mục của mình, nay nhờ Ngài chỉ thị, thật như kẻ uống nước, nóng lạnh tự biết. Nay hành giả chính là thầy của Minh vậy.

Huệ Năng nói:

- Ông nếu biết vậy, thì tôi và ông cùng thờ Tổ sư Hoàng Mai. Hãy khéo tự giữ gìn.

Minh lại hỏi:

- Huệ Minh từ nay về sau nên đi hướng nào?

Huệ Năng đáp:

- Gặp Viên thì đừng, gặp Mông thì ở.

Minh lạy mà từ biệt, xuống đến chân núi Minh bảo chúng bạn:

- Trên ngọn núi kia, không có tung tích gì, hãy đi tìm nơi khác.
Chúng tin là phải, Huệ Minh sau đổi tên Đạo Minh để tránh chữ trên của thầy.

Huệ Năng sau đến Tào Khuê lại bị ác nhân săn đuổi, bèn đến đất Tứ Hội tỵ nạn trong đám thợ săn trải mười lăm năm, tùy nghi thuyết pháp cho họ. Thợ săn thường bảo tôi canh lưới, mỗi khi thấy sanh mạng tôi đều thả ra. Đến bửa ăn, tôi bỏ rau vào nồi thịt, ai hỏi thì đáp chỉ ăn rau bên thịt mà thôi.

Một ngày kia suy nghĩ thấy đã đến thời hoằng pháp, không nên ẩn mãi. Bèn đi đến chùa Pháp Tánh đất Quảng Châu, gặp Ấn Tông Pháp sư đang giảng Kinh Niết Bàn. Nhân hai vị Tăng tranh luận ý nghĩa gió và phan, người bảo gió động, người bảo phan động, cãi nhau không dứt. Huệ Năng đến bảo:

- Không phải gió động cũng chẳng phải phan động, chỉ có tâm của nhân giả động thôi.

Cả chúng nghe đều kinh hãi. Ấn Tông mời lên pháp tòa, hỏi nghĩa lý thâm sâu, thấy Huệ Năng nói lời giản dị mà lý lẽ xác đáng, không do văn tự. Ấn Tông bảo:

- Hành giả quyết không phải là người tầm thường. Lâu nay nghe y pháp đất Hoàng Mai đã truyền về phương Nam, có phải là hành giả chăng?

Huệ Năng đáp:

- Không dám.

Ấn Tông làm lễ, xin đưa y bát ra cho đại chúng chiêm bái. Ấn Tông lại hỏi:

- Đại sư Hoàng Mai truyền dạy thế nào?

Năng đáp:

- Không truyền dạy gì cả. Chỉ nói kiến tánh, không nói thiền định giải thoát.

- Tại sao không nói thiền định giải thoát?

- Vì đấy là hai pháp, không phải Phật pháp. Phật pháppháp không hai.

- Sao gọi Phật pháp không hai?

- Như Phápgiảng kinh Niết bàn, nói rõ Phật tánh, đấy là pháp không hai của Phật pháp. Như Bồ Tát Cao Quý Đức Vương bạch Phật, phạm bốn giới trọng, làm tội ngũ nghịchnhất xiển đề v.v…, có dứt thiện căn Phật tánh hay không? Phật đáp: Thiện căn có hai thứ thường và vô thường. Phật tánh thì không thường, không vô thường nên không đoạn được. Đấy gọi là không hai. Một là thiện, hai là bất thiện. Phật tánh không thiện, không bất thiện, ấy gọi là không hai. Uẩn và giới, phàm phu thấy hai, bậc trí liễu đạt tánh, nó không hai, tánh không hai ấy là Phật tánh[3] .

Ấn Tông nghe nói hoan hỷ, chắp tay nói:

- Tôi giảng Kinh như ngói gạch, nhân giả nói nghĩa lý như vàng ròng.

Nhân đấy thế phát cho tôi nguyện thờ làm thầy. Tôi ở dưới cội Bồ Đề khai diễn pháp môn Đông Sơn.

Huệ Năng này đắc phápĐông Sơn, trải bao gian khổ, mạng như chuông treo chỉ mành, ngày nay được cùng chư vị gặp gỡ nơi đây, nếu không phải tiền duyên nhiều kiếp, thì cũng nhờ đời quá khứ cúng dường chư Phật, cùng gieo căn lành, nay mới được nghe căn duyên đắc pháp Đốn giáo như trên.

Pháp Đốn giáo này là do tiên Thánh truyền lại, không phải do trí tôi bịa đặt. Mong chư vị nghe giáo pháp của chư Thánh đời trước, mỗi người hãy tự tịnh tâm ý, nghe xong, hãy tự dứt trừ nghi hoặc, thì cùng với Thánh đời trước không khác.

Chúng nghe xong hoan hỷ đảnh lễ mà lui.

[2] Đoạn này tả rất đúng tâm lý “nô lệ thẩm quyền” của đại chúng. Tự họ, họ có đủ lương tri phê phán chính xác, nhưng khi nghe một người có thẩm quyền (như Ngũ Tổ) nói ngược lại, họ cũng hùa theo.
[3] (DG chú: Có thể hiểu đoạn này như sau: Phật tánh là tánh biết, như một năng lực, tự nó không thiện, không ác. Thiện ác chỉ do cách dùng, như con dao bén không tốt, không xấu, tốt xấu do kẻ dùng nó để giết hay cứu người)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19683)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23944)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41199)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19673)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23968)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21741)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23289)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27487)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26536)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29298)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33164)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20177)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25750)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20901)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31280)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38533)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21411)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44231)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29802)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42160)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22119)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45712)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32096)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23937)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24373)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29235)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33891)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27661)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32111)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21053)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28836)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21551)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28034)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22051)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21413)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19482)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19456)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19816)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19226)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29155)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20606)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28269)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23634)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33158)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31827)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21360)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39603)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21535)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19362)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26357)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24800)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21738)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22364)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29121)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22544)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20457)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23495)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21226)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35278)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24537)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant