Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Lời Tựa

02 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 14153)
1. Lời Tựa

KINH PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG ĐÀ RA NI

Hán dịch: Nước Kế Tân, sa môn Phật Đà Ba Lỵ
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Thiền Tâm

Lời Tựa

Đức Như Lai ứng thế, vì muốn cứu vớt các hàm linh khỏi khổ luân hồi, chứng lên quả Phật, nên mở cửa phương tiện, nói ra muôn ngàn pháp môn. Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám. Các hàng tứ chúng nên phát tâm trì tụng, tất hiện đời tội chướng tiêu diệt, phước huệ phát sinh, tương lai sẽ gần gũi chư Phật ở 10 phương Tịnh Độ.

Trong niên hiệu Nghi Phụng thời Hậu Chu, có vị tăng là Phật Đà Ba Lỵ từ Tây Thiên Trúc đến Trung Hoa. Trong dịp chiêm lễ thánh tích ở non Ngũ Đài, ngài gặp một lão ông từ trong núi đi ra, dùng tiếng Phạn bảo rằng: "Pháp sư chẳng nài mệt nhọc, từ muôn dặm đến đây thành tâm đảnh lễ, mong diện kiến đức Văn Thù, thật đã hết lòng mộ đạo. Nhưng chúng sanh ở Trung Hoa, đa số tạo nhiều tội nghiệp, hàng xuất gia phần đông phạm luật nghi, chỉ có kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni mới diệt được tất cả tội chướng ấy. Chẳng hay pháp sưđem theo kinh đó đến miền này chăng?" Ngài Phật Đà Ba Lỵ đáp: "Bần đạo đến đây chỉ vì mục đích đảnh lễ đức Văn Thù, nên không đem kinh đó theo". Lão ông nói: "Đức Đại Thánh Văn Thù hằng có lòng từ bi muốn cứu độ chúng sanh. Pháp sư đã không đem kinh ấy theo, tức là không hợp với thánh tâm, dù có gặp đức Văn Thù, cũng không được phần lợi ích. Vậy ngài nên trở về Tây Vức mang kinh ấy đến lưu truyền nơi miền Hán độ, để cứu vớt sanh loại, siêu độ u linh, tức là báo ơn chư Phật, chừng đó quyết định sẽ gặp Bồ Tát Văn Thù". Nói xong, bỗng biến mất.

Biết lão ông là đức Văn Thù hóa hiện dạy bảo, ngài Phật Đà Ba Lỵ mừng thương lẫn lộn, cúi đầu đảnh lễ, vội vã trở về Tây Trúc. Đến năm Vĩnh Thuận thứ hai, ngài mới đem kinh đến Trung Hoa, vào triều nội, tâu lên mọi việc. Vua nghe xong, vui đẹp, sắc cho ngài Nhật Chiếu Tam Tạng và quan tư tân điển lịnh là Đỗ Hành Khải phiên dịch. Dịch xong, vua đem kinh bản bảo tàng trong nội, cấm không cho lưu hành và thưởng tặng cao tăng Phật Đà Ba Lỵ 30 cuốn lụa. Ngài thương khóc, tâu rằng: "Bần đạo không kể nguy hiểm thân mạng, từ xa đem kinh đến đây, vì muốn lợi lạc quần sanh, không nghĩ đến danh lợi. Xin thánh thượng gia ân cho lại nguyên bản, để các loài hàm linh cùng được lợi ích!" Vua dạy lưu kinh phiên dịch, và trả lại Phạn bản cho Tây Tăng. Ngài Phật Đà Ba Lỵ đem phạn bản đến chùa Tây Minh, tìm được vị tăng Trung Hoa giỏi phạn ngữ là Thuận Trinh, rồi dâng sớ tâu xin cho cùng phiên dịch, và cho biên ra nhiều bản để lưu hành. Xong, ngài Phật Đà Ba Lỵ đem phạn bản đến non Ngũ Đài, vào hang Kim Cang rồi không thấy trở ra, tương truyền ngài đã được đức Văn Thù thu nhận vào pháp hội của chư Bồ Tát.

Bởi sự tích trên, nên bút giả nghĩ kinh này có thể lợi ích cho hàng Phật tử Việt Nam. Theo trong đại tạng, kinh này có tất cả 9 bản dịch, bút giả lấy bản dịch của ngài Phật Đà Ba Lỵ làm bản chính, tham chiếu các bản khác của chư vị như: Kim Cang Trí, Thiện Vô Úy, Địa Bà Ha, Nghĩa Tịnh, Bất Không... bổ vào những chỗ khuyết. Lại theo Mật tạng, Tôn Thắng chân ngôn còn có tên là Nhứt Thiết Như Lai Ô Sắc Ni Sá Tối Thắng Đà Ra Ni (1). Thần chú này do đức Thế Tôn ở Đại Thiện Pháp đường nơi cõi Cực Lạc, sau khi nhập Phổ Chiếu Cát Tường Tam Ma Địa nói ra. Thấy chú văn y như nhau, bút giả cũng lấy bản Nhứt Thiết Như Lai Ô Sắc Ni Sá Tổng Trì Kinh làm tài liệu tham chiếu. Ngoài ra, lại còn có cuốn Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni Niệm Tụng Nghi Quỹ Pháp của ngài Bất Không Tam Tạng dịch. Bút giả nghĩ pháp thức đó dành cho bực lợi căn chuyên tu về Mật Tông, không thích hợp với phần đông trình độ hiện nay, nên không dịch ra đây.

Việc làm này có phần nào công đức, xin hồi hướng vãng sanh Tịnh Độ, cho bốn ân, ba cõi, và pháp giới hữu tình.

Liên Du

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12528)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14115)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10858)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10528)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11202)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12008)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13166)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13660)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33679)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11344)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12937)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13067)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11642)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17905)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11452)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11870)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11519)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18986)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12562)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11351)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13156)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15787)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11830)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11706)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12782)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12641)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13978)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13005)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12958)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13305)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12783)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12715)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11762)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11742)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12346)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12394)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19834)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11975)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11999)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16895)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12681)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15070)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16130)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12897)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12250)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11926)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11933)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13164)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16516)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13237)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12504)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11832)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19870)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11168)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11268)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10408)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11104)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10977)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10043)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11759)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant