Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quyển thứ 04

07 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 13097)
Quyển thứ 04

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang

Quyển thứ tư

PHẨM BỐN TƯỚNG

PHẦN VII

Ðoạn I . - Ðức Phật lại bảo ngài Ca Diếp rằng :

- Này Thiện nam tử ! Ðại Bồ tát phân biệt khai thị Ðại Bát Niết Bàn có bốn tướng nghĩa. Những gì là bốn ? Một là tự chánh, hai là chánh tha, ba là có thể theo vấn đáp, bốn là khéo giải nghĩa nhân duyên. Này Ca Diếp ! Sao gọi là Tự chánh ? Như đức Phật Như Lai thấy các nhân duyên mà có điều nói lên. Ví như vị Tỳ kheo thấy đám lửa lớn liền nói lên rằng : “Ta thà ôm lấy đám lửa cháy rực đó, nhất định chẳng dám đối với lời thuyết giảng mười hai bộ Kinh và tạng bí mật của đức Như Lai mà bài báng rằng, Kinh này là lời nói của ma, hoặc nói rằng, Như Lai, Pháp, Tăng là vô thường. Người nói như vậy là tự lừa dối, cũng lừa dối người khác. Thà dùng dao bén tự cắt lưỡi của mình, nhất định chẳng nói rằng, Như Lai, Pháp, Tăng là vô thường. Nếu nghe người khác nói cũng chẳng tín thọ. Ðối với người nói này nên sinh lòng thương xót. Như Lai, Pháp, Tăng chẳng thể nghĩ bàn nên thọ trì như vậy. Tự quán thân mình giống như đống lửa”. Ðó gọi là Tự chánh.

Này Ca Diếp ! Sao gọi là Tha chánh (chánh cho người khác) ? - Khi đức Phật nói pháp, có một người con gái nuôi trẻ con bằng sữa, đi đến chỗ đức Phật, cúi đầu dưới chân đức Phật, có ý niệm đoái hoài, lòng tự suy nghĩ, liền ngồi về một phía. Bấy giờ, đức Thế Tôn biết nên hỏi rằng :

- Ngươi vì ái niệm nên cho trẻ ăn nhiều váng sữa (chất béo lấy từ sữa : tô) mà chẳng biết trù lượngtiêu hóa được cùng chẳng tiêu hóa được ?

Lúc bấy giờ, người con gái liền bạch đức Phật rằng :

- Lạ lắm ! Thưa đức Thế Tôn ! Ngài giỏi có thể biết được điều suy nghĩ trong lòng của con ! Nguyện xin đức Như Lai dạy con ít nhiều! Thưa đức Thế Tôn ! Vào sáng nay, con cho trẻ ănnhiều váng sữa, sợ chẳng thể tiêu hóa, sẽ bị yểu thọ ! Nguyện xin đức Như Lai vì con giải nói !

Ðức Phật dạy rằng :

- Con của ngươi đã ăn tức thời tiêu hóa, tăng thêm thọ mạng !

Người con gái nghe rồi lòng rất hớn hở, lại thưa rằng :

- Ðức Như Lai nói chân thật nên con hoan hỷ ! Thưa đức Thế Tôn! Như vậy thì vì muốn điều phục các chúng sinh nên khéo có thể phân biệt nói tiêu hóa hay chẳng tiêu hóa, cũng nói các pháp vô ngã, vô thường. Nếu đức Phật Thế Tôn trước nói “Thường” thì đồ chúng thọ hóa (người chịu sự giáo hóa) sẽ nói rằng, Pháp này đồng với pháp ngoại đạo, họ liền bỏ đi !

Ðức Phật lại bảo người con gái rằng :

- Nếu con ngươi lớn lên có thể tự đi lại, phàm việc ăn uống có thể tiêu cái khó tiêu thì việc cho ăn váng sữa như cũ chẳng cung cấp đủ. Ðệ tử Thanh Văn sở hữu của ta cũng lại như vậy, như trẻ con của ngươi, họ chẳng thể tiêu hóa pháp thường trụ này. Vậy nên ta trước nói khổ, vô thường. Nếu những đệ tử Thanh Văn của ta... công đức đã đủ, đủ sức tu tập Kinh điển Ðại Thừa thì ta sẽ vì họ nói giảng sáu vị ở ở Kinh này. Những gì là sáu vị ? Nói rằng : Vị chua của khổ. vị mặn của vô thường, vị đắng của vô ngã, vui là vị ngọt, ngã là vị cay, thường là vị đạm (nhạt). Trong thế gian kia, có ba thứ vị. Ðó là Vô thường, Vô ngã, Vô lạc. Phiền não là củi, trí tuệ là lửa. Do nhân duyên mà thành món ăn Niết Bàn, gọi là Thường - Lạc - Ngã, khiến cho các đệ tử đều ham thích - Ðức Phật lại bảo người con gái - Ngươi nếu có duyên muốn đến xứ khác nên đuổi đứa con xấu (ác) ra khỏi nhà, rồi đem hết bảo tạng giao phó cho đứa con tốt (thiện).

Người con gái bạch đức Phật rằng :

- Thật đúng như lời dạy của đức Thánh ! Kho tàng trân bảo nên bày ra cho đứa con tốt, chẳng nên bày ra cho đứa con xấu !

- Này người chị em ! Ta cũng như vậy, khi Bát Niết Bàn, pháp tạng vô thượng vi mật của Như Lai, ta chẳng trao cho các đệ tử Thanh Văn.v.v... như bảo tạng của ngươi chẳng bày ra cho đứa con ác, mà cần phải phó chúc cho các Bồ tát.v.v... như ngươi đem bảo tàng ủy thác cho đứa con tốt. Vì sao vậy ? Vì đệ tử Thanh Văn sinh ra biến dị tưởng cho rằng Phật Như Lai Diệt Ðộ chân thật. Nhưng ta chân thật chẳng Diệt Ðộ. Như người trong thời gian đi xa chưa trở về, đứa con xấu của ngươi liền nói rằng, ngươi đã chết, mà ngươi thật chẳng chết. Các Bồ tát... nói rằng, Như Lai thường còn chẳng biến dị như đứa con tốt của ngươi chẳng nói ngươi chết. Do ý nghĩa này nên ta đem pháp tạng bí mật Vô thượng giao phó cho các Bồ tát. Này Thiện nam tử ! Nếu có chúng sinh cho rằng, Phật thường trụ chẳng biến dị thì phải biết nhà này là nhà có Phật. Ðó gọi là Tha chánh.

Này Ca Diếp ! Sao gọi là có thể tùy theo vấn đáp ? Nếu có người đến hỏi Phật Thế Tôn, ta phải làm sao chẳng bỏ tiền của mà được tiếng là người Ðàn Việt đại thí ? - Ðức Phật nói - Nếu có Samôn, Bàlamôn.v.v... ít dục, biết đủ, chẳng thọ nhận, chẳng nuôi vật bất tịnh thì phải thí cho người ấy tớ trai, tớ gái, người sai bảo; người tu phạm hạnh thì thí cho nữ sắc; kẻ đoạn dứt rượu thịt thì thí cho rượu thịt, người chẳng ăn quá ngọ thì thí cho bữa ăn quá ngọ; người chẳng dùng hương hoa thì thí cho hương hoa... Người bố thí như vậy thì danh tiếng vang lừng cùng khắp khắp thiên hạ mà chưa từng tổn phí một hào của mình. Ðó gọi là có thể tùy theo vấn đáp.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Người ăn thịt chẳng nên thí cho thịt. Vì sao vậy ? Vì con thấy người chẳng ăn thịtcông đức lớn!

Ðức Phật khen ngài Ca Diếp :

- Hay thay ! Hay thay ! Nay ông mới có thể giỏi biết ý của ta ! Bồ tát hộ pháp cần phải như vậy ! Này Thiện nam tử ! Từ ngày hôm nay, bắt đầu chẳng cho phép đệ tử Thanh Văn ăn thịt. Như khi thọ đàn việt tín thí thì nên xem đồ ăn đó như thịt con mình !

Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Tại sao đức Như Lai chẳng cho ăn thịt ?

- Này Thiện nam tử ! Luận về ăn thịt thì dứt đoạn giống Ðại từ !

Ngài Ca Diếp lại hỏi :

- Vì sao trước đây đức Như Lai cho phép Tỳ kheo ăn ba thứ tịnh nhục ?

- Này Ca Diếp ! Ba thứ tịnh nhục đó là tùy theo việc mà chế dần ra.

Ngài Ca Diếp Bồ tát lại bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Mười thứ bất tịnhnhân duyên gì ? Cho đến chín thứ thanh tịnh mà lại chẳng cho phép ?

Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp :

- Cũng là nhân việc theo thứ lớp mà chế dần ra, ông phải biết, tức là thị hiện nghĩa đoạn nhục !

Ngài Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng :

- Tại sao đức Như Lai xưng tán thịt của cá là món ăn ngon vậy ?

- Này Thiện nam tử ! Ta cũng chẳng nói những gì thuộc về thịt của cá là món ăn ngon. Ta nói mía, gạo ngon, đường, tất cả lúa mạch, đường đen, sữa, cao sữa, váng sữa, dầu dùng làm món ăn ngon. Tuy ta nói nên sắm đủ thứ quần áo, nhưng cái nên sắm phải là đồ hoại sắc, huống gì là tham trước vị thịt của cá này ?

Ngài Ca Diếp lại nói rằng :

- Như Lai nếu chế chẳng ăn thịt thì năm thứ vị như sữa, cao sữa, nước uống cao sữa, váng sữa sống, váng sữa chín, dầu mè.v.v... này và các y phục, áo kiều xa gia, đồ ngọc kha, da thuộc, vàng, bạc, chén, bát... Những vật như vậy cũng chẳng nên thọ nhận !

- Này Thiện nam tử ! Ông chẳng nên đồng sở kiến của bọn Ni Kiền kia ! Như Lai đã chế ra tất cả cấm giới đều có ý khác. Ý khác nên cho phép ăn ba thứ tịnh nhục; tưởng khác nên đoạn tuyệt mười thứ thịt; tưởng khác nên tất cả đều đoạn và tự chết (?). Này Ca Diếp ! Ta từ hôm nay chế các đệ tử chẳng được ăn tất cả thịt nữa. Này Ca Diếp ! Người ăn thịt ấy hoặc đi hoặc đứng hoặc ngồi hoặc nằm, tất cả chúng sinh nghe hơi thịt của chúng đều sinh ra kinh sợ. Ví như có người gần gũi sư tử, rồi mọi người thấy người đó, nghe mùi hôi sư tử, cũng sinh ra kinh sợ.

Này Thiện nam tử ! Như người ăn tỏi mùi hôi khó chịu. Người khác thấy họ nghe hôi bỏ đi. Giả sử người thấy từ xa còn chẳng muốn nhìn huống là phải gần gũi họ. Người ăn thịt cũng lại như vậy, tất cả chúng sinh nghe hơi thịt của chúng đều khủng bố phát sinh tư tưởng sợ chết. Những loài có mạng sống đi trong hư không, dưới đất, trong nước đều bỏ chạy hết, đều nói người này là oán địch của chúng ta. Vậy nên Bồ tát chẳng tập ăn thịt mà vì độ chúng sinh thị hiện ăn thịt. Tuy thị hiện ăn thịt nhưng kỳ thật chẳng ăn. Này Thiện nam tử ! Như vậy Bồ tát ăn thanh tịnh còn chẳng ăn, huống chi là phải ăn thịt. Này Thiện nam tử ! Sau khi ta Niết Bàn vô lượng trăm năm, ở bốn đường, Thánh nhân đều lại Niết Bàn, sau khi chánh pháp diệt, ở trong đời tượng pháp, sẽ có Tỳ kheo với dáng vẻ giữ gìn luật mà ít đọc tụng Kinh, ham thích ăn uống, nuôi lớn thân mình. Thân thể ăn mặc thô bỉ xấu xí, hình dung tiều tụy, không có uy đức, chăn thả trâu dê, gánh vác củi cỏ, đầu tóc, râu, móng đều dài và bén. Họ tuy mặc cà sa nhưng giống như thợ săn, nhìn chăm bước chậm như mèo rình chuột. Họ thường xướng lên rằng : “Ta đắc quả Alahán !”, chịu nhiều thứ bệnh, nằm ngủ trên phân bẩn. Bên ngoài họ hiện vẻ hiền thiện mà bên trong ôm lòng tham lam tật đố, như Bàlamôn thọ phép câm.v.v... Thật chẳng phải Samôn mà hiện hình dáng Samôn, tà kiến hừng hực, bài báng chánh pháp. Những người như vậy phá hoại sự chế ra giới luật để chánh hạnh oai nghi, nói quả giải thoát để lìa khỏi pháp bất tịnh của đức Như Laiphá hoại giáo lý bí mật thậm thâm. Họ đều tự theo ý nói ngược lại Kinh luật mà nói lên rằng : “Như Lai đều cho chúng ta ăn thịt”. Họ tự tạo ra lập luận này mà nói rằng chính là Phật nói rồi cùng nhau tranh cãi, đều tự xưng là Thích Tử Samôn. Này Thiện nam tử ! Lúc bấy giờ, lại có những Samôn gom chứa thóc gạo, nhận lấy thịt cá, tay tự làm món ăn, nắm giữ bình dầu, bảo cái, dầy da, gần gũi quốc vương, đại thần, trưởng giả, xem tướng tinh tú, siêng tu y đạo, nuôi dưỡng nô tỳ, gom chứa vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, pha lê, chân châu, san hô, hỗ phách, kiên ngọc, kha cụ.... đủ thứ trái quả. Họ học tập các kỹ nghệ, họa sư, tô trát, tạo ra sách dạy học, gieo trồng cây cối, đạo dùng độc, chú thuật huyễn hóa, hòa hợp các thuốc, tấu xướng kỹ nhạc, hương hoa sửa trị thân, đánh bạc, chơi cờ vay... học các nghề khéo léo. Nếu có vị Tỳ kheo có thể lìa khỏi các việc ác như vậy thì ta sẽ nói người này là đệ tử chân chính của ta.

Lúc bấy giờ, ngài Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di nhờ người khác mà sống, nếu khi xin ăn mà được đồ ăn có lẫn thịt thì làm sao được ăn hợp với pháp thanh tịnh ?

Ðức Phật dạy rằng :

- Này Ca Diếp ! Phải dùng nước tẩy rửa, làm cho thịt tách ra, rồi nhiên hậu mới ăn. Nếu đồ đựng thức ăn bị thịt làm bẩn thì chỉ cần làm cho mất mùi vị là được dùng không có tội. Nếu thấy trong thức ăn có nhiều thịt thì chẳng nên thọ nhận. Tất cả hiện nhục (thịt hiện tiền) đều chẳng nên ăn, nếu ăn thì bị tội. Nay ta xướng chế ra pháp đoạn nhục này, nếu nói rộng thì chẳng thể hết mà thời điểm Niết Bàn đã đến. Vậy nên ta lược nói thôi. Ðó gọi là có thể tùy theo câu hỏi mà đáp.

Này Ca Diếp ! Sao gọi là khéo giải nghĩa nhân duyên ? Như có bốn bộ chúng đến hỏi ta rằng : “Thưa đức Thế Tôn ! Ý nghĩa như vậy, khi đức Như Lai mới xuất hiện tại sao ngài chẳng vì vua Ba Tư Nặc nói nghĩa của pháp môn thâm diệu đó ? Hoặc khi thì nói sâu, hoặc khi thì nói cạn, hoặc gọi là phạm, hoặc gọi là chẳng phạm. Sao gọi là đọa ? Sao gọi là luật ? Sao gọi là nghĩa của Ba la đề mộc xoa ? - Ðức Phật dạy - Ba la đề mộc xoa gọi là tri túc thành tựu oai nghi không có sự thọ nhận nuôi chứa, cũng gọi là Tịnh Mạng. Ðọa là gọi bốn đường ác. Lại nữa đọa là rơi vào địa ngục... cho đến chốn A tỳ. Luận về nhanh chóng của việc đọa ấy còn hơn cả bạo vũ (mưa dữ). Người nghe kinh sợ, kiên trì cấm giới, chẳng phạm oai nghi, tu tập biết đủ, chẳng nhận tất cả vật bất tịnh. Lại nữa, đọa là nuôi lớn địa ngục, súc sinh, ngã quỉ. Do những nghĩa đó nên gọi là đọa. Ba la đề mộc xoa là lìa khỏi tà nghiệp bất thiện của thân, miệng, ý. Luật là vào oai nghi thâm Kinh thiện nghĩa của giới, ngăn chặn sự thọ nhận tất cả vật bất tịnhnhân duyên bất tịnh, cũng ngăn chận bốn trọng tội, mười ba tăng tàn, hai bất định pháp, ba mươi xả đọa, chín mươi mốt đọa, bốn pháp hối lỗi, pháp chúng học nhiêu, bảy diệt tránh.v.v... Hoặc lại có người phá tất cả giới. Sao gọi là tất cả ? Ðó là bốn trọng pháp... cho đến bảy pháp diệt tránh. Hoặc lại có người bài báng chánh pháp, kinh điển thậm thâmNhất xiển đề, thành tựu đầy đủ hết tất cả tướng, không có nhân duyên... Những người như vậy tự nói rằng, ta là người thông minh, trí tuệ linh lợi, những tội nặng nhẹ đều che giấu hết, che giấu các ác như con rùa che giấu sáu bộ phận thân thể. Mọi tội như vậy mãi mãi chẳng hối cải. Do chẳng hối nên ngày đêm lớn thêm. Những Tỳ kheo đó đã phạm mọi tội lỗinhất định chẳng phát lồ. Việc đó khiến cho sự vi phạm lại thêm nhiều hơn. Vậy nên Như Lai biết việc đó rồi thì dần dần theo thứ lớp mà chế ra, chẳng phải trong một lúc.

Lúc bấy giờ, có thiện nam tử, thiện nữ nhân bạch đức Phật rằng:

- Thưa đức Thế Tôn ! Ðức Như Lai biết việc như vậy lâu rồi, tại sao ngài chẳng chế ra trước ? Hay là Thế Tôn muốn khiến cho chúng sinh vào ngục A tỳ ? Ví như nhiều người muốn đến phương khác nhưng lạc mất chánh lộ, đuổi theo đường tà. Những người đó chẳng biết mình lạc đường nên đều cho là mình đi đúng đường. Họ lại chẳng gặp ai để hỏi phải trái. Chúng sinh đối với Phật pháp cũng mê lầm như vậy, họ chẳng thấy chánh chơn. Ðức Như Lai nên vì họ trước giảng nói chánh đạo, bảo cho các Tỳ kheo biết, đây là phạm giới, đây là trì giới... Ngài phải chế ra như thế ! Vì sao vậy ? Vì đức Như Lai Chánh Giác là người chân thật thấy biết chánh đạo ! Chỉ có đức Như Lai, đấng Thiên Trung Thiên, mới có thể nói công đức tăng thượng của thập thiệnnghĩa vị ấy. Vậy nên con khải thỉnh ngài nên trước chế ra giới !

Ðức Phật dạy rằng :

- Này Thiện nam tử ! Nếu nói Như Lai có thể vì chúng sinh tuyên nói công đức tăng thượng của thập thiện thì tức là Như Lai nhìn các chúng sinh như La Hầu La. Vì sao nói khó rằng, hay là Thế Tôn muốn khiến cho chúng sinh vào địa ngục, ta thấy một người có nhân duyên rơi vào địa ngục A tỳ mà còn vì người đó trụ ở đời một kiếp hoặc giảm một kiếp. Ta đối với chúng sinh có lòng đại từ bi thì vì duyên gì phải lừa dối người tưởng như con khiến cho họ vào địa ngục ? Này Thiện nam tử ! Như bên trong vương quốc có người thu nhận áo, thấy áo có lỗ thì nhiên hậu mới vá. Như Lai cũng vậy, thấy các chúng sinhnhân duyên vào địa ngục A tỳ thì mới dùng giới thiện mà vì họ bổ sung. Này Thiện nam tử ! Ví như vị Chuyển Luân Thánh Vương trước vì chúng sinh nói pháp thập thiện. Về sau họ dần dần có người làm ác thì nhà vua liền tùy theo việc để đoạn dứt dần. Ðoạn các ác rồi nhiên hậu nhà vua tự thi hành pháp thánh vương. Này Thiện nam tử ! Ta cũng như vậy, tuy có lời nói chẳng được chế trước, cần phải nhân Tỳ kheo hành động phi pháp dần dần, nhiên hậu mới tùy theo sự việc mà chế ra. Chúng sinh ưa pháp theo lời dạy tu hành. Những chúng sinh như vậy mới có thể được thấy pháp thân của Như Lai. Như vua Chuyển Luân sở hữu luân bảo chẳng thể nghĩ bàn, Như Lai cũng vậy chẳng thể nghĩ bàn, Pháp, Tăng hai báu cũng chẳng thể nghĩ bàn. Người hay nói pháp và người nghe pháp đều chẳng thể nghĩ bàn. Ðó gọi là giỏi giải nghĩa nhân duyên. Bồ tát phân biệt khai thị bốn thứ tướng nghĩa như vậy thì gọi là nghĩa nhân duyên trong Ðại Niết Bàn của Ðại Thừa vậy.

Lại nữa, tự chánh là gọi người được Ðại Bát Niết Bàn này. Tha chánh là ta vì Tỳ kheo nói rằng, Như Lai thường tồn chẳng biến dị. Theo câu mà đáp là, này Ca Diếp ! Nhân điều ông hỏi nên được vì Ðại Bồ tát, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di nói rộng rãi nghĩa vi diệu thậm thâm này. Nghĩa nhân duyênThanh Văn, Duyên Giác chẳng giải được nghĩa thậm thâm như vậy, chẳng nghe chữ Y ba chấm (?) mà thành Giải thoát, Niết Bàn, Ma Ha Bát Nhã thành tạng bí mật. Ta nay, ở đây, xiển dương, phân biệt vì các Thanh Văn khai phát tuệ nhãn. Giả sử có người nói như vầy : “Bốn việc như vậy sao gọi là một chẳng phải hư vọng sao ?” thì liền nên trở lại cội nguồn, hư không đó không sở hữu, chẳng lay động, không ngăn ngại. Như vậy bốn việc có những gì sai khác ? Ðiều này há được gọi là hư vọng ư ?

- Thưa đức Thế Tôn ! Chẳng phải vậy !

- Như vậy các câu tức là một nghĩa, gọi là nghĩa “không”. Tự chánh, Tha chánh, năng tùy vấn đáp, giải nhân duyên nghĩa cũng lại như vậy, tức là Ðại Niết Bàn, không có khác.

Ðức Phật dạy rằng :

- Này Ca Diếp ! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nói như vầy: “Như Lai vô thường ! Làm sao biết được vô thường này vậy ? Vì như đức Phật đã nói, diệt các phiền não gọi là Niết Bàn, giống như lửa tắt đều không sở hữu, diệt các phiền não cũng lại như vậy nên gọi là Niết Bàn thì sao gọi Như Laipháp thường trụ, chẳng biến dị vậy ? Như đức Phật nói rằng, lìa các hữu thì mới gọi là Niết Bàn. Trong Niết Bàn này không có các hữu thì sao gọi Như Laipháp thường trụ chẳng biến dị vậy ? Như áo rách hết chẳng gọi là vật, Niết Bàn cũng vậy, diệt các phiền não chẳng gọi là vật thì sao gọi Như Laithường trụ pháp, chẳng biến dị vậy ? Như đức Phật nói rằng, lìa dịch tịch diệt gọi là Niết Bàn. Như người bị chém đầu thì không có đầu; ly dục tịch diệt cũng lại như vậy, rỗng không không sở hữu nên gọi là Niết Bàn thì sao gọi Như Laipháp thường trụ, chẳng biến dị vậy ? Như đức Phật nói rằng :

Ví như sắt nóng Ðập tóe lưu tinh

Tan rồi liền diệt Không biết chỗ còn

Ðươc Chánh giải thoát Cũng lại như trên

Ðã độ dâm dục Các hữu ứ bùn,

Ðược chỗ không động Chỗ đến chẳng thông (biết).

Thì sao gọi Như Laipháp thường trụ, chẳng biến dị vậy. Này Ca Diếp ! Nếu có người tạo sự vấn nạn như vậy thì gọi là tà nạn. Này Ca Diếp ! Ông cũng chẳng nên tác khởi sự ức tưởng này, cho là tính Như Lai chính là diệt tận vậy. Này Ca Diếp ! Diệt phiền não thì chẳng gọi là vật. Vì sao vậy ? Vì vĩnh viễn rốt ráo ! Vậy nên gọi là Thường. Câu tịch tịnh này là không có gì trên, diệt hết các tướng không có còn sót. Câu tươi trắng này thường trụ không thoái lui. Vậy nên Niết Bàn gọi là thường trụ. Như Lai cũng vậy, thường trụ không biến dị. Nói tinh lưu (tóc ra sao) là gọi phiền não vậy. Tan rồi liền diệt, không biết chỗ tồn tại là gọi các phiền não của Như Lai diệt rồi, chẳng ở tại năm đường. Vậy nên Như Laipháp thường trụ, không có biến dị. Lại nữa, Này Ca Diếp ! Thầy của chư Phật gọi là pháp. Vậy nên Như Lai cung kính cúng dường. Do pháp thường trụ nên chư Phật cũng thường trụ !

Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng :

- Nếu lửa phiền não tắt thì Như Lai cũng diệt. Vậy thì Như Lai không chỗ thường trụ. Như màu đỏ của sắt tung tóe kia diệt rồi thì không biết nó đến đâu, phiền não của Như Lai cũng lại như vậy, diệt rồi không chỗ đến. Lại như viên sắt nóng kia cùng với màu đỏ diệt rồi thì không có, Như Lai cũng vậy, diệt rồi thì không thường. Diệt lửa phiền não liền vào Niết Bàn, thì phải biết, Như Lai tức là vô thường.

- Này Thiện nam tử ! Sở dĩ nói sắt là gọi các phàm phu. Người phàm phu tuy diệt phiền não, nhưng diệt rồi lại sinh ra nên gọi là Vô thường. Như Lai chẳng vậy, diệt rồi chẳng sinh ra nữa. Vậy nên gọi là Thường.

Ngài Ca Diếp lại thưa rằng :

- Như màu đỏ của sắt diệt rồi, đặt sắt trở lại trong lửa thì màu đỏ lại sinh ra. Như Lai nếu vậy nên trở lại sinh ra kết sử. Nếu kết sử sinh trở lại thì tức là vô thường.

Ðức Phật dạy rằng :

- Này Ca Diếp ! Ông nay chẳng nên nói lời như vậy; Như Lai vô thường. Vì sao vậy ? Vì Như Lai là Thường ! Này Thiện nam tử ! Như cây cháy kia tắt rồi thì có tro, phiền não diệt rồi liền có Niết Bàn. Xé áo, chặt đầu, đập bình.v.v.. những ví dụ đó cũng lại như vậy. Những vật như vậy đều có danh tự, gọi là áo rách, đầu chặt, bình vỡ. Này Ca Diếp ! Như sắt lạnh rồi có thể làm cho nóng trở lại. Như Lai chẳng vậy, đoạn phiền não rồi thì rốt ráo thanh lương (mát mẻ), lửa rực phiền não lại chẳng sinh ra nữa. Này Ca Diếp ! Ông phải biết, vô lượng chúng sinh giống như sắt đó, ta dùng lửa hừng trí tuệ vô lậu đốt cháy những phiền não kết của chúng sinh đó !

Ngài Ca Diếp lại thưa rằng :

- Hay thay ! Hay thay ! Con nay biết chắc chắn Như Lai đã nói chư Phật là Thường !

- Ðức Phật dạy rằng :

- Này Ca Diếp ! Ví như vị Thánh Vương ở tại hậu cung, hoặc lúc dạo xem tại hậu viên. Nhà vua tuy chẳng ở trong các thể nữ nhưng cũng chẳng được nói rằng, vị Thánh Vương mạng chung. Này Thiện nam tử ! Như Lai cũng vậy, tuy chẳng hiện ở cõi Diêm Phù Ðề, vào trong Niết Bàn, nhưng chẳng được gọi là Vô thường. Như Lai ra khỏi vô lượng phiền não, vào đến chỗ Niết Bàn an lạc, dạo vườn hoa giác, vui sướng hưởng thọ lạc.

Ngài Ca Diếp lại hỏi :

- Như đức Phật nói rằng, ta đã qua khỏi biển lớn phiền não lâu rồi, nếu đức Phật đã qua biển phiền não thì duyên cớ gì ngài thu nạp bà Gia Du Ðà La, sinh ra La Hầu La ? Do nhân duyên này nên phải biết rằng, đức Như Lai chưa qua được biển lớn những kết phiền não. Nguyện xin đức Như Lai nói về nhân duyên ấy.

Ðức Phật dạy rằng :

- Này Ca Diếp ! Ông chẳng nên nói rằng, Như Lai qua biển lớn phiền não đã lâu, cớ sao lại thu nạp bà Gia Du Ðà La, sinh ra ông La Hầu La. Do nhân duyên này thì phải biết rằng, Như Lai chưa qua biển lớn các kết phiền não. Này Thiện nam tử ! Ðại Niết Bàn này có thể kiến lập đại nghĩa. Các ông nay phải chí tâm nghe cho kỹ, ta vì người nói rộng rãi, chớ sinh ra kinh sợ, nghi hoặc ! Nếu có Ðại Bồ tát trụ ở Ðại Niết Bàn thì vua núi Tu Di cao rộng như thế đều có thể khiến cho vào ở trong hạt cải. Những chúng sinh nương ở núi Tu Di ấy cũng chẳng bị dồn ép, không có tư tưởng vãng lai mà vẫn như cũ không khác. Chỉ người ứng độ mới thấy Bồ tát này đem núi Tu Di nạp vào trong hạt cải, rồi trở lại ở yên nơi trú xứ cũ. Này Thiện nam tử ! Lại có Ðại Bồ tát trụ ở Ðại Niết Bàn có thể đem ba ngàn đại thiên thế giới vào trong hạt cải. Trong hạt cải ấy chúng sinh cũng không bị dồn ép và tư tưởng vãng lai như cũ, không khác, chỉ người ứng độ thì thấy vị Bồ tát này đem ba ngàn đại thiên thế giới nạp vào trong hạt cải, rồi trở lại ở yên nơi trú xứ cũ. Này Thiện nam tử ! Lại có Ðại Bồ tát trụ ở Ðại Niết Bàn có thể đem ba ngàn đại thiên thế giới vào trong một lỗ chân lông... cho đến chỗ cũ... cũng lại như vậy. Này Thiện nam tử ! Lại có Ðại Bồ tát trụ ở Ðại Niết Bàn đoạn lấy thế giới chư Phật của ba ngàn đại thiên trong mười phương đặt ở mũi kim khâu như xâu lá táo, rồi ném đi, đặt ở thế giới Phật khác nơi tha phương mà tất cả chúng sinh sở hữu trong ấy chẳng biết sự vãng phản, chẳng biết là ở chỗ nào? Chỉ có người ứng độ mới có thể thấy việc đó... cho đến chỗ cũ... cũng lại như vậy. Này Thiện nam tử ! Lại có Ðại Bồ tát trụ ở Ðại Niết Bàn đoạn lấy các thế giới Phật của ba ngàn đại thiên trong mười phương đặt vào bàn tay phải như vòng quay thợ nặn, rồi ném đi, đặt vào thế giới nhiều như vi trần ở phương khác mà không một chúng sinh nào có tư tưởng vãng phãn, chỉ có người ứng độ mới thấy việc đó... cho đến chỗ cũ... cũng lại như vậy. Này Thiện nam tử ! Lại có Ðại Bồ tát trụ ở Ðại Niết Bàn cắt lấy tất cả thế giới của chư Phật nhiều không lường ở mười phương nạp hết vào thân mình mà trong ấy chúng sinh đều chẳng bị dồn ép, cũng không có tư tưởng vãng phãn và trú xứ, chỉ có người ứng độ mới có thể thấy việc đó... cho đến chỗ cũ... cũng lại như vậy. Này Thiện nam tử ! Lại có Ðại Bồ tát trụ ở Ðại Niết Bàn đem thế giới mười phương vào trong một hạt bụichúng sinh trong ấy không bị dồn ép và tư tưởng vãng phãn, chỉ có người ứng độ mới có thể thấy việc đó... cho đến chỗ cũ... cũng lại như vậy. Này Thiện nam tử ! Ðại Bồ tát này trụ ở Ðại Niết Bàn thì có thể thị hiện đủ thứ thần thông biến hóa không lường. Vậy nên gọi là Ðại Bát Niết Bàn. Ðại Bồ tát này đã có thể thị hiện vô lượng thần thông biến hóa như vậy mà tất cả chúng sinh không thể đo lường thì sao ông nay có thể biết Như Lai quen gần ái dục để sinh ra ông La Hầu La ?

Này Thiện nam tử ! Ta trụ ở đại Niết Bàn này đã lâu, thị hiện đủ thứ thần thông biến ở ba ngàn đại thiên thế giới này, hàng trăm ức mặt trời mặt trăng, hàng trăm ức cõi Diêm Phù Ðề. Ta thị hiện đủ thứ như trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm đã nói rộng rãi. Ta ở ba ngàn đại thiên thế giới, hoặc ở ở cõi Diêm Phù Ðề thị hiện Niết Bàn mà cũng chẳng rốt ráo thủ lấy Niết Bàn. Hoặc ở cõi Diêm Phù Ðề thị hiện vào thai mẹ khiến cho cha mẹ ấy sinh ra tư tưởng con của ta mà thân này của ta rốt ráo chẳng từ ái dục hòa hợp mà sinh ra vậy. Ðã lâu, từ vô lượng kiếp đến nay, ta lìa khỏi ái dục. Thân này của ta hôm nay tức là pháp thân, ta thuận theo thế gianthị hiện vào thai mẹ. Này Thiện nam tử ! Tại vườn Lâm Vi Ni của cõi Diêm Phù Ðề này ta thị hiện từ mẹ Ma Gia mà sinh ra. Sinh ra rồi ta liền có thể đi về phía Ðông bảy bước và xướng lên rằng : “Ta ở trong người, trời, atula... là đấng tối tôn, tối thượng !” Cha mẹ, người, trời thấy rồi kinh ngạc vui mừng, sinh lòng hy hữu. Những người này... gọi ta là đứa trẻ con mà thân này của ta từ vô lượng kiếp đến nay đã lìa khỏi pháp đó lâu rồi. Thân như vậy tức là pháp thân, chẳng phải thân do sự thành lập của máu thịt, gân mạch, xương tủy... Ta thuận theo pháp chúng sinh ở thế gian nên thị hiện làm đứa trẻ con. Ði bảy bước về phía Nam là thị hiện muốn vì vô lượng chúng sinh làm ruộng phước vô thượng. Ði bảy bước về phía Tây là thị hiện sinh ra để đoạn tuyệt vĩnh viễn già chết, là thân sau cùng. Ði bảy bước về phía Bắc là thị hiện đã qua khỏi các hữu sinh tử. Ði bảy bước về phía Ðông là thị hiệnchúng sinh mà làm người đứng đầu dẫn đường. Ði bảy bước về bốn góc là thị hiện đoạn diệt đủ thứ phiền não, chủng tánh bốn ma, thành tựu Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Ði bảy bước về phía trên là thị hiện chẳng bị sự nhiễm ô của vật bất tịnh giống như hư không. Ði bảy bước về phía dưới là thị hiện mưa pháp diệt lửa địa ngục, khiến cho chúng sinh kia hưởng thọ niềm vui yên ổn. Với người hủy cấm giới thì thị hiện làm sương mù mưa đá. Ở cõi Diêm Phù Ðề, sinh ra được bảy ngày rồi thì thị hiện cạo tóc. Mọi người đều gọi ta là đứa trẻ đầu tiên cạo tóc. Tất cả người, trời, ma vương Ba Tuần, Samôn, Bàlamôn không ai có thể thấy tướng đảnh của ta, huống là có người cầm dao đến cạo tóc. Nếu có người cầm dao đến đảnh của ta thì không có chỗ đó. Ta ở trong vô lượng kiếp cạo bỏ râu tóc đã lâu rồi, nhưng vì muốn thuận theo pháp thế gian nên thị hiện cạo tóc. Khi ta đã sinh ra rồi, cha mẹ đem ta vào trong đền thờ trời để ta trình diện với Ma Ê Thủ La kia. Ma Ê Thủ La khi thấy ta liền chắp tay cung kính đứng ở một bên. Ta ở trong vô lượng kiếp lìa bỏ pháp vào đền thờ trời như vậy đã lâu rồi. Vì muốn thuận theo pháp thế gian nên ta thị hiện như vậy. Ta ở cõi Diêm Phù Ðề thị hiện xâu lỗ tai mà thật ra tất cả chúng sinh không có ai có thể xâu lỗ tai của ta. Thuận theo pháp chúng sinh của thế gian nên ta thị hiện như vậy. Lại dùng các báu làm ngọc đeo tai sư tử để trang nghiêm tai ấy. Nhưng ta đã ở trong vô lượng kiếp lìa khỏi đồ trang nghiêm. Vì muốn thuận theo pháp thế gian nên ta tạo nên sự thị hiện đó. Ta thị hiện vào trường học tu tập thư sớ. Nhưng ta đã ở trong vô lượng kiếp thành tựu đầy đủ rồi. Quan sát khắp sở hữu chúng sinh trong ba cõi thì không có ai đủ sức làm thầy của ta. Vì muốn thuận theo pháp thế gian nên ta thị hiện vào học đường. Vậy nên gọi là Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri học tập đi voi, cỡi ngựa, sức giác đấu... đủ thứ kỹ nghệ cũng lại như vậy. Ở cõi Diêm Phù Ðề mà ta lại thị hiện làm vương thái tử. Chúng sinh thấy ta làm thái tử, ở trong năm dục, vui sướng hưởng thụ lạc. Nhưng ta đã ở trong vô lượng kiếp lìa bỏ niềm vui của năm dục như vậy. Vì muốn thuận theo pháp thế gian nên ta thị hiện tướng như vậy. Thầy tướng xem tướng cho ta rằng, nếu chẳng xuất gia thì sẽ làm Chuyển Luân Thánh Vương, làm vua cõi Diêm Phù Ðề, tất cả chúng sinh đều tin lời nói này. Nhưng ta đã ở trong vô lượng kiếp, bỏ ngôi vua Chuyển Luân để làm vua Pháp Luân. Ở cõi Diêm Phù Ðề, ta thị hiện lìa khỏi niềm vui năm dục của thể nữ, thấy cảnh già, bịnh, chết và Samôn, rồi xuất gia tu đạo. Tất cả chúng sinh đều cho là thái tử Tất Ðạt Ða mới bắt đầu xuất gia. Nhưng ta đã ở trong vô lượng kiếp xuất gia tu đạo. Thuận theo pháp thế gian nên ta thị hiện như vậy. Ta ở cõi Diêm Phù Ðề thị hiện xuất gia, thọ cụ túc giới, tinh cần tu đạo, được quả Tu Ðà Hoàn, quả Tư Ðà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán. Mọi người đều cho rằng, quả A La Hán đó dễ được chẳng khó. Nhưng ta đã ở trong vô lượng kiếp thành quả A La Hán. Vì muốn độ thoát các chúng sinh nên ta ngồi dưới cây Bồ Ðề Ðạo Tràng, dùng cỏ làm tòa ngồi, tiêu diệt hàng phục mọi thứ ma. Mọi người đều cho rằng, ta đầu tiên ở dưới cây Bồ Ðề Ðạo Tràng hàng phục mọi ma. Nhưng ta đã ở trong vô lượng kiếp, hàng phục chúng lâu rồi. Vì muốn hàng phục chúng sinh cương cường nên ta thị hiện sự biến hóa này. Ta lại thị hiện đại, tiểu tiện lợi, thở ra, hít vào. Mọi người đều cho rằng, ta thật sự có đại, tiểu tiện lợi, thở ra, hít vào. Nhưng thân này của ta đã được quả báo không có những hoạn nạn đó. Thuận theo thế gian nên ta thị hiện như vậy thôi. Ta lại thị hiện thọ sự tín thí của con người. Nhưng thân này của ta đều không có đói khát. Thuận theo thế pháp nên ta thị hiện như vậy. Ta lại thị hiện đồng với các chúng sinh nên hiện có ngủ nghỉ. Nhưng ta đã ở trong vô lượng kiếp, đầy đủ trí tuệ thâm diệu vô thượng, lìa xa ba hữu. ta có uy nghi tiến dừng, đầu, mắt, bụng lưng, toàn thân, tật bệnh, đau đớn, cây chống, đền đáp, rửa rấy chân tay, rửa mặt, súc miệng, xỉa răng, tự làm sạch... Mọi người đều cho là ta có những việc như vậy. Nhưng thân này của ta đều không những điều này vậy. Tay chân ta thanh tịnh giống như hoa sen, mùi thơm tịnh khiết như hương hoa Ưu bát la. Tất cả chúng sinh gọi ta là người, nhưng thật ra ta chẳng phải người. Ta lại thị hiện nhận áo phấn tảo (dơ bẩn) giặt giũ, may vá... Nhưng ta đã lâu chẳng cần áo đó. Mọi người đều gọi La Hầu La là con của ta, vua Thâu Ðâu Ðàn là cha của ta, ma Gia phu nhân là mẹ của ta, ta ở tại thế gian, thọ các khoái lạc, rồi bỏ những việc như vậy mà xuất gia học đạo. Mọi người lại nói rằng, vị vương thái tử thuộc họ lớn Cù Ðàm này xa lìa thế lạc, cầu pháp xuất thế. Nhưng ta lìa khỏi ái dục thế gian lâu rồi. Những việc như vậy đều là thị hiện. Tất cả chúng sinh đều gọi ta là người, nhưng ta quả thật chẳng phải. Này Thiện nam tử ! Ta tuy ở tại trong cõi Diêm Phù Ðề này, thỉnh thoảng thị hiện vào với Niết Bàn. Nhưng thật ra chẳng rốt ráo Niết Bàn mà các chúng sinh đều cho là Như Lai chân thật diệt độthật tánh của Như Lai thật chẳng diệt mất vĩnh viễn. Vậy nên ông phải biết là pháp thường trụ, pháp chẳng biến dị. Này Thiện nam tử ! Ðại Niết Bàn tức là cảnh giới của các đức Phật Như Lai. Ta lại thị hiện trong cõi Diêm Phù Ðề, rồi ra khỏi thế gian. Các chúng sinh đều cho là ta mới thành Phật. Nhưng ta đã ở trong vô lượng kiếp việc làm đã hoàn thành. Thuận theo pháp thế gian nên ta lại thị hiện ở cõi Diêm Phù Ðề, bắt đầu xuất gia, thành Phật. Ta lại thị hiện ở cõi Diêm Phù Ðề, chẳng giữ gìn cấm giới, phạm bốn trọng tội. Mọi người đều thấy và cho là ta thật sự phạm tội. Nhưng ta đã ở trong vô lượng kiếp kiên trì cấm giới, không có khuyết lậu. Ta lại thị hiện ở cõi Diêm Phù Ðề làm Nhất xiển đề. Mọi người đều thấy ta là Nhất xiển đề, nhưng ta thật chẳng phải Nhất xiển đề. Nhất xiển đề thì sao có thể thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác được. Ta lại thị hiện ở cõi Diêm Phù Ðề, phá hòa hợp tăng. Chúng sinh đều cho là ta phá hòa hợp tăng. Ta xem người, trời không có ai có thể phá hòa hợp tăng. Ta lại thị hiện ở cõi Diêm Phù Ðề, hộ trì chánh pháp. Mọi người đều cho rằng ta là hộ pháp, đều sinh ra kinh ngạc quái lạ. Pháp của chư Phật vậy chẳng nên kinh ngạc quái lạ. Ta lại thị hiện ở cõi Diêm Phù Ðề làm Ma ba Tuần. Mọi người đều cho rằng ta là Ba Tuần. Nhưng lâu rồi, ta ở trong vô lượng kiếp đã lìa khỏi việc ma, thanh tịnh vô nhiễm giống như hoa sen. Ta lại thị hiện ở cõi Diêm Phù Ðề, làm thân nữ thành Phật. Mọi người thấy thế đều nói rằng, lạ quá nữ nhân mà có thể thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Như Lai rốt ráo chẳng thọ thân nữ, nhưng vì muốn điều phục vô lượng chúng sinh nên hiện hình dáng nữ. Vì thương xót tất cả các chúng sinh nên ta lại thị hiện đủ thứ sắc tượng. Ta lại thị hiện ở trong cõi Diêm Phù Ðề, sinh ra ở bốn đường. Nhưng ta đoạn tuyệt nhân các đường lâu rồi. Chúng sinh do nghiệp nhân nên đọa ở bốn đường, vì độ họ nên ta sinh ở trong đó. Ta lại thị hiện làm Phạm Thiên Vương ở trong cõi Diêm Phù Ðề để khiến cho kẻ phụng sự Phạm thiên an trụ ở chánh pháp. Nhưng ta thật sự chẳng phải mà các chúng sinh đều cho rằng ta là Phạm Thiên thật. Việc thị hiện hình dáng trời ở khắp các miếu thờ trời cũng lại như vậy. Ta lại thị hiện vào nhà dâm nữ ở cõi Diêm Phù Ðề. Nhưng ta thật khôngtư tưởng tham dục, thanh tịnh chẳng bẩn giống như hoa sen. Vì những chúng sinh tham dâm mê sắc, ở ngã tư đường lớn, ta tuyên nói diệu pháp. Nhưng ta thật khôngtâm dục uế mà mọi người cho là ta thủ hộ nữ nhân. Ta lại thị hiện vào nhà thanh y ở cõi Diêm Phù Ðề, vì muốn dụ hóa khiến cho họ trụ ở chánh pháp. Nhưng ta thật khôngnghiệp ác đọa ở tại thanh y như vậy. Ta lại thị hiện ở trong cõi Diêm Phù Ðề mà làm giáo sư khai hóa trẻ mới học khiến trụ ở chánh pháp. Ta lại thị hiện ở cõi Diêm Phù Ðề, vào các quán rượu, sòng bạc, thị hiện đủ thứ thắng thua, tranh cãi vì muốn cứu vớt những chúng sinh ở đó mà ta thật khôngnghiệp ác như vậy. Nhưng các chúng sinh đều cho rằng ta tạo tác nghiệp như vậy. Ta lại thị hiện trụ lâu ở bãi tha ma, làm thân chim thứu lớn để độ các loài chim bay mà các chúng sinh đều cho rằng ta thật sự là thân chim thứu. Nhưng lâu rồi, ta lìa khỏi nghiệp đó. Vì muốn độ những chim thứu kia nên ta thị hiện như vậy. Ta lại thị hiện trong cõi Diêm Phù Ðề, làm đại trưởng giả vì muốn an lập vô lượng chúng sinh trụ ở chánh pháp. Ta lại thị hiện làm những vua, đại thần, con vua, phụ tướng, ở trong chúng đó, đều là bậc nhất, vì tu chánh pháp nên ở ngôi vua. Ta lại thị hiện ở trong cõi Diêm Phù Ðề, lúc kiếp dịch bệnh khởi lên, có nhiều chúng sinh bị khổ não dịch bệnh, ta trước thí cho thuốc thang, rồi nhiên hậu vì họ nói chánh pháp vi diệu, khiến cho họ an trụ ở Bồ Ðề Vô thượng. Mọi người đều gọi là kiếp bệnh khởi lên. Lại nữa, ta thị hiện trong cõi Diêm Phù Ðề, khi kiếp đói kém khởi lên, rồi tuy sự cần dùng của chúng sinh ấy mà cung cấp đồ ăn thức uống, rồi nhiên hậu vì họ nói chánh pháp vi diệu, khiến cho họ an trụ ở Bồ Ðề Vô thượng. Lại nữa, ta thị hiện trong cõi Diêm Phù Ðề, khi kiếp đao binh khởi lên, liền vì chúng sinh nói pháp khiến cho họ lìa khỏi oán hại, làm cho họ được an trụ ở Bồ Ðề Vô thượng. Lại nữa, ta thị hiện vì kẻ cho là thường tưởng, nói vô thường tưởng; kẻ cho là lạc tưởng thì vì họ nói khổ tưởng; kẻ cho là ngã tưởng thì nói vô ngã tưởng; kẻ cho là tịnh tưởng thì nói bất tịnh tưởng. Nếu có chúng sinh tham trước ba cõi thì ta liền vì họ nói pháp, khiến cho họ lìa khỏi chỗ đó. Ðể độ chúng sinh nên ta vì họ nói pháp dược vi diệu vô thượng. Vì đoạn trừ tất cả cây phiền não nên ta gieo trồng cây thuốc pháp Vô thượng. Vì muốn cứu vớt các ngoại đạo nên ta diễn nói chánh pháp. Tuy ta lại thị hiện làm thầy của chúng sinh mà lòng đầu tiên không có tư tưởng làm thầy của chúng sinh. Vì muốn cứu vớt các hạ tiện nên ta hiện vào trong ấy mà vì họ nói pháp chứ chẳng phải là do ác nghiệp mà thọ thân này vậy. Như Lai Chánh Giác an trụ như vậy ở Ðại Bát Niết Bàn. Vậy nên gọi là thường trụ, không biến đổi. Như cõi Diêm Phù Ðề, cõi Phất Vu Ðãi ở phương Ðông, cõi Cù Gia Ni ở phương Tây, cõi Uất Ðơn Việt ở phương Bắc cũng lại như vậy. Như bốn thiên hạ ba ngàn đại thiên thế giới cũng vậy, hai mươi lăm cõi hữu như trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm đã nói rộng rãi. Do vậy nên gọi là Ðại Bát Niết Bàn. Nếu có Ðại Bồ tát an trụ ở Ðại Bát Niết Bàn như vậy thì có thể thị hiện thần thông biến hóa như vậy mà không sở úy. Này Ca Diếp ! Do cái duyên đó nên ông chẳng nên nói rằng, La Hầu La là con của Phật. Vì sao vậy ? Vì ta ở trong vô lượng kiếp xa xưa đã lìa khỏi dục hữu. Vậy nên Như Lai gọi là thường trụ không có biến dị.

Ngài Ca Diếp lại nói rằng :

- Thưa đức Như Lai ! Sao gọi là thường trụ ? Như đức Phật nói rằng, như đèn tắt rồi không có phương sở. Như Lai cũng vậy đã diệt độ rồi cũng không phương sở !

Ðức Phật dạy rằng :

- Này Thiện nam tử Ca Diếp ! Ông nay chẳng nên nói lời như vậy ! Ðèn tắt hết rồi không có phương sở, Như Lai cũng vậy, đã diệt độ rồi không có phương sở. Này Thiện nam tử ! Ví như khi trai gái thắp đèn, trong ù đèn lớn, nhỏ đựng đầy dầu. Tùy theo số dầu đựng trong ấy mà ánh sáng còn tồn tại. Nếu dầu hết rồi thì ánh sáng cũng hết theo. Ánh sáng ấy diệt là ví dụ cho phiền não diệt. Ánh sáng tuy diệt hết nhưng cây đèn vẫn tồn tại. Như Lai cũng vậy, phiền não tuy diệt nhưng pháp thân luôn tồn tại. Này Thiện nam tử ! Ý ông thế nào ? Ánh sáng cùng cây đèn đều diệt chăng ?

Ngài Ca Diếp đáp rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Chẳng diệt vậy ! Tuy chẳng đều diệt nhưng là Vô thường. Nếu dùng pháp thân ví cho cây đèn mà cây đèn vô thường thì pháp thân cũng vậy, nên là vô thường !

- Này Thiện nam tử ! Ông nay chẳng nên nạn hỏi như vậy ! Như thế gian nói khí dụng thì đối với Như Lai Thế Tônpháp khí Vô thượng. Khí dụng kia vô thường, chẳng phải Như Lai vậy. Trong tất cả pháp, Niết Bàn là thường, là Như Lai thể nên gọi là Thường. Lại nữa, Này Thiện nam tử ! Nói rằng, đèn tắt là nói sự chứng Niết Bàn của A la hán. Do diệt tham ái, các phiền não nên ví nó là đèn tắt. A na hàm thì gọi là có tham. Do có tham nên chẳng được nói rằng, đồng với đèn tắt. Vậy nên ta trước đây lại nói với nhau rằng, ví như đèn tắt, chẳng phải nói Ðại Niết Bàn đồng với đèn tắt. A na hàm chẳng phải thỉnh thoảng đến, lại chẳng trở lại hai mươi lăm cõi hữu, lại chẳng thọ thân xú uế, thân vi trùng, thân tạp thực, thân độc hại nữa. Ðó gọi là A na hàm. Nếu lại thọ thân thì gọi là Na hàm, chẳng thọ thân thì gọi là A na hàm. Có đi, lại thì gọi là Na hàm, không đi, lại thì gọi là A na hàm.

 

KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN

- Quyển thứ tư hết -


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49769)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34649)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33464)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43944)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57103)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47584)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39431)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38490)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52965)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36621)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32253)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40499)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43506)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31477)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46723)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36222)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28718)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29261)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31914)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28850)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33391)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29161)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 61000)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39795)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26704)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29692)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37405)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40109)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26858)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42690)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37294)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28308)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28908)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26410)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27181)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26205)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34695)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27829)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30491)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33307)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28576)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30088)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25496)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21862)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51336)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26744)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28640)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27726)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24368)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27473)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31966)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30207)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27725)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35478)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27471)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30028)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31797)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23042)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24197)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23046)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant