Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

I. Giáo khởi nhân duyên

16 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 15544)
I. Giáo khởi nhân duyên


A DI ÐÀ KINH HỢP GIẢI

Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa hợp dịch

I. GIÁO KHỞI NHÂN DUYÊN (nhân duyên phát khởi giáo pháp)

 Kinh Pháp Hoa dạy: “Chư Phật Thế Tôn chỉ vì một đại sự nhân duyênxuất hiện trong thế gian... Muốn cho chúng sanh khai Phật tri kiến, khiến cho họ được thanh tịnh nên xuất hiện trong đời. Vì muốn chỉ bày cho chúng sanh tri kiến của Phật nên xuất hiện trong đời. Vì muốn cho chúng sanh ngộ được tri kiến của Phật nên xuất hiện trong đời. Vì muốn cho chúng sanh chứng nhập đạo tri kiến của Phật nên xuất hiện trong đời”.

 Vì nhân duyên nào mà không ai hỏi, Ðức Phật lại tự giảng ra bản kinh này? Nhân duyên Phật giảng kinh này gồm hai loại: Tổng và Biệt. 

1. Tổng nhân duyên:

Tổng nhân duyên chẳng ngoài việc chỉ thẳng chúng sanh dùng tâm niệm Phật để nhập tri kiến Phật. Tri kiến Phật chính là chân tâm của chúng sanh; nhưng từ vô thỉ đến nay, chúng sanh do vì mê chân, chạy theo ngụy, chẳng nhận thức được bản thể thanh tịnh của tâm mình, nên tạo tác các nghiệp, trôi lăn mãi trong vòng luân hồi. Nay đức Thế Tôn dạy chúng sanh nhất tâm niệm Phật, tịnh niệm liên tục, tâm miệng xứng hợp với nhau thì sẽ thể hội “tâm này chính là Phật, Phật cũng chính là tâm này”, tâm và Phật chẳng hai. Ðó chính là ý nghĩa chân thật của câu “Tự tánh Di Ðà, duy tâm Tịnh Ðộ”. Niệm Phật đến mức “tâm, Phật chẳng hai” chính là “nhập Phật tri kiến’ vậy.

 

2. Biệt nhân duyên:

Gồm có mười loại:

a. Lòng từ bi nghĩ thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp của đức Thế Tôn:

Cõi Sa Bà vốn sẵn đau khổ, nhưng đời Mạt Pháp, ngũ trược hỗn loạn, sự đau khổ ấy càng trầm trọng hơn nữa. Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này, thâm tín tu hành, phát nguyện vãng sanh, niệm Phật chắc thật thì vẫn có thể vượt thoát tam giới, vãng sanh Cực Lạc.

b. Khai thị pháp môn phương tiện thù thắng:

chúng sanh cănvô lượng nên Ðức Phật cũng phải thuyết ra vô lượng pháp môn; nhưng pháp môn Niệm Phậtphương tiện thù thắng nhất vì:

* Dù chẳng gặp Phật tại thế, vẫn thường được thấy Phật. Bởi lẽ, chúng sanh thâm tín pháp môn này, chuyên tâm niệm Phật, phát nguyện vãng sanh liền được vãng sanh, thân cận A Di Ðà Phật. 

* Chẳng cần đoạn hoặc nghiệp vẫn thoát khỏi luân hồi: nhờ sức từ bi gia hộ của Phật A Di Ðà, người chân thành niệm Phật sẽ được đới nghiệp vãng sanh (do lúc vãng sanh, hoặc nghiệp vẫn còn, chưa đoạn trừ hết nên gọi là “đới nghiệp”).
* Chẳng cần tu đủ các môn Ba La Mật khác, vì: Nhất tâm niệm Phật, bỏ hết muôn duyên, đó là Bố Thí Ba La Mật. Nhất tâm niệm Phật, các ác đều dứt, đó là Trì Giới Ba La Mật. Nhất tâm niệm Phật, tâm tự nhu hòa, chính là Nhẫn Nhục Ba La Mật. Nhất tâm niệm Phật, vĩnh viễn chẳng thoái đọa, đó chính là Tinh Tấn Ba La Mật. Nhất tâm niệm Phật, chẳng nghĩ đến điều gì khác, đấy chính là Thiền Ðịnh Ba La Mật. Nhất tâm niệm Phật, chánh niệm phân minh, chính là Bát Nhã Ba La Mật. Như vậy, nhất tâm niệm Phật là đầy đủ cả sáu Ba La Mật, nên không cần phải tu trọn lục độ, vạn hạnh.

 * Chẳng cần phải tu nhiều kiếp mà được giải thoát nhanh chóng: hễ nhất tâm niệm Phật cho đến mức nhất tâm bất loạn thì nhờ vào sức tiếp dẫn của đấng Từ Phụ, sẽ được vãng sanh Tịnh Ðộ, không còn vướng mắc trong vòng sanh tử nữa.

 Trí Ðộ Luận chép: “Có các Bồ Tát tự nghĩ mình vì báng bổ Ðại Bát Nhã sẽ bị đọa vào ác đạo trong vô lượng kiếp, dẫu tu các hạnh khác vẫn chẳng diệt tội nổi. Sau gặp được bậc thiện tri thức dạy niệm Phật A Di Ðà, liền diệt được chướng nạn, siêu sanh Tịnh Ðộ”.  

c. Phô bày chốn khổ, cõi vui khiến cho chúng sanh sanh tâm chán, ưa:

 Cõi Sa Bà này “thế gian vô thường, quốc độ mong manh, tứ đại khổ không, ngũ ấm vô ngã” (kinh Bát Ðại Nhân Giác); ba khổ, tám khổ dẫy đầy, vô lượng họa hại. Dù kẻ phước đức tận hưởng vinh hoa phú quý, sự sự như ý, vẫn khó giữ mãi vẻ thanh xuân, tử thần đón sẵn. Tổ Thiện Ðạo từng răn:

 Dẫu ai khoái lạc ngàn muôn,

 Rốt cục vô thường vẫn đến,

 Và:

 Vạn lượng gia tài đành bỏ mặc,

Thõng đôi tay trắng nhập u minh.

Cõi Sa Bà khổ sở thế đó, nhưng chúng sanh vẫn ngu si, tham luyến, chẳng biết là khổ, chẳng cầu xuất ly, nên đức Thế Tôn phải đặc biệt nói pháp môn Tịnh Ðộ, tán dương y báo, chánh báo thù thắng của cõi Cực Lạc để chúng sanh nhàm lìa Sa Bà, ham thích Cực Lạc, phát nguyện vãng sanh, khẩn thiết niệm Phật.

d. Hóa đạo hàng Nhị Thừa khiến họ được vãng sanh Tịnh Ðộ:

Hàng Nhị Thừa xem tam giới như lao ngục, coi sanh tử như oan gia, nhưng một khi đã liễu sanh thoát tử, chứng đắc Ngã Không, bèn sanh lòng đắm trước nơi quả vị, chẳng thể tiến hướng Bồ Ðề. Vì thế, đức Thế Tôn phải nói ra pháp này để hóa đạo hàng định tánh Thanh Văn, khiến cho họ khi được nghe mười phương chư Phật dị khẩu đồng âm tán dương A Di Ðà Phật, sẽ bỏ tâm đoạn diệt, tu hạnh Tịnh Ðộ, thành tựu Phật quả.

 

e. Khích lệ hàng sơ tâm thân cận Phật A Di Ðà:

Hàng sơ tâm Bồ Ðề tuy đã phát đại tâm nhưng tâm chưa kiên định, hễ gặp phải nghịch cảnh hoặc bạn ác sẽ khó tránh khỏi thoái thất tâm Bồ Ðề. Hơn nữa, sanh tử chưa đoạn, hoặc nghiệp chưa trừ, khó tránh khỏi nghiệp lực lôi kéo, lại bị đắm chìm trong ngũ dục, trôi lăn trong sanh tử. Vì thế, Ðức Phật dạy họ phải thân cận Phật A Di Ðà. Bởi lẽ, được vãng sanh sẽ chứng ngộ Vô Sanh Nhẫn. Có chứng ngộ Vô Sanh Nhẫn thì mới có thể trở vào Sa Bà giáo hóa chúng sanh, viên mãn nguyện Bồ Ðề. Bởi thế, Long Thọ Bồ Tát dù đã chứng Sơ Ðịa vẫn nguyện vãng sanh; thậm chí Phổ Hiền Bồ Tát, dẫu dùng mười đại nguyện vương giáo hóa chúng sanh, chung cục vẫn khuyên phát nguyện vãng sanh Cực Lạc.

 f. Khiến cho mọi căn cơ dù độn hay lợi đều được độ thoát cả:

 Pháp môn này độ trọn ba căn, gồm thâu lợi, độn, đúng như Ngài Sư Tử Phong tán dương:

 Dù gái hay trai tu được cả,

 Trí ngu thì cũng có phần đây!  

g. Hộ trì khiến cho chúng sanh chẳng bị thoái đọa:

 Chúng sanh đời mạt phước mỏng, chướng dày, huệ cạn, nghiệp sâu, tu hành vướng phải ma chướng trùng trùng, chánh kiến yếu ớt nên bị hãm vào lưới ma, bị ác nghiệp lôi kéo, khó bề khỏi đọa tam đồ. Nhờ trì danh niệm Phật, hành nhân liền được thấm đẫm từ ân nơi biển đại thệ của đức Di Ðà, được đức Từ Tôn gia bị, được mười phương chư Phật cùng hộ niệm, viễn ly ma chướng, chóng sanh Tịnh Ðộ, vĩnh viễn thoát khỏi tam đồ, bát nạn (1).

 h. Do hữu niệm chứng nhập vô niệm:

 Chân Như tự tánh ai nấy sẵn có, vốn dĩ vô niệm. Tiếc là từ vô thỉ đến nay, do một niệm vọng động khiến cho bao tạp niệm trùng trùng, tạo tác mãi bao ác nghiệp, chết đây sanh kia, không lúc nào ngơi.

 Như sóng và nước vốn cùng một thể, chân cùng vọng danh khác thể đồng. Bởi đó, chân tâm lẫn vọng tâm chẳng ngoài một niệm hiện tiền của chúng ta. Nay pháp môn Niệm Phật đây dùng tịnh niệm trừ khử vọng niệm, dùng tế niệm thay thế thô niệm, dùng thiện niệm dứt ác niệm, dùng nhất niệm đối trị vạn niệm, tức là “dùng độc trị độc, dùng quân dẹp quân, dùng niệm dứt niệm”. Khi độc đã hết, giặc đã bình, thuốc lẫn quân còn dùng chi nữa! Bởi thế, khi đã niệm đến mức nhất tâm bất loạn, thì sẽ niệm mà vô niệm; đấy chính là chân niệm. Chân niệm ấy chính là chân như tự tánh, ta và Phật không còn phân biệt nữa!

 i. Dùng vãng sanh để ngộ nhập vô sanh:

 Về lý, tuy chúng sanh và Phật đồng một thể tánh, nhưng xét trên sự, thánh phàm cách biệt muôn trùng.

Xét ra: Khi sanh thì duyên sanh, nhưng pháp tánh chẳng hề sanh cùng với duyên. Khi diệt thì duyên diệt nhưng pháp tánh cũng chẳng bị diệt theo duyên.

Vì thế, nếu còn mê thì dù có nói là vô sanh nhưng vẫn sanh. Nếu luận theo pháp tánh thì dù có sanh nhưng vẫn là vô sanh. Vì mê muội, chúng sanh lầm thấy có sanh diệt. Do đã ngộ, chư Phật chỉ thấy vô sanh.

Ðức Phật thương xót chúng sanh cõi này, nhận vọng là chân, mê tánh chạy theo cảnh, nên từ bi nói ra pháp môn Niệm Phật, khích lệ đại chúng vãng sanh. Nếu hành nhân niệm đến khi mọi vọng duyên đều tan sạch, tâm chỉ còn một khối, sẽ thể hội tâm ta chính là Phật A Di Ðà, A Di Ðà Phật chính là tâm ta; nào còn thấy sanh hay vô sanh nữa!

 j. Chỉ rõ con đường tắt trọng yếu trong đường tu hành:

 Trong các pháp tu hành, pháp môn Niệm Phật giản tiện, trực tiếp nhất; nhưng trong các pháp Niệm Phật, pháp Trì Danh lại càng trọng yếu, giản tiện hơn cả, nên được tôn xưng là “tiệp kính chi kính” (con đường tắt nhất trong các con đường tắt). Kinh đây giảng rõ: Chấp trì thánh hiệu chính là nhiều phước đức, nhiều thiện căn, liền được đới nghiệp vãng sanh. Ðược vãng sanh liền chứng ngay ba bậc Bất Thoái. So trong ba kinh Tịnh Ðộ, kinh này chú trọng cách thức tu tập giản yếu, hiệu quả nhất.

 Do những nhân duyên tổng và biệt nói trên, đức Thích Tôn đã giảng ra bộ kinh vi diệu hy hữu này. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49724)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34618)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33440)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43912)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57043)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47557)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39414)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38468)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52927)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36593)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32235)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40455)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43474)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31441)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46702)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36195)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28690)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29225)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31883)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28805)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33355)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29120)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60975)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39746)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26661)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29653)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37358)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40078)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26831)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42644)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37273)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28281)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28891)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26389)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27157)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26180)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34621)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27797)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30465)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33275)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28554)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30060)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25482)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21840)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51284)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26715)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28617)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27694)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24344)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27452)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31918)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30176)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27695)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35429)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27434)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30002)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31763)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23011)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24176)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23013)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant