Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

III. Hiển minh tông thú

16 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 14820)
III. Hiển minh tông thú


A DI ÐÀ KINH HỢP GIẢI

Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa hợp dịch

III. HIỂN MINH TÔNG THÚ (minh định tông thú của kinh này)

 Tông nghĩa là sùng phụng, là điều được kinh đề cao. Tông chính là đường lối trọng yếu để tu hành. Mục đích của tu hành là khế hội bản thể; do đó, Tông chính là mấu chốt để thực hiện mục đích ấy. Thú là chỗ Tông quy kết về.

 Trong phần trước đã biện minh về Thể, ấy là Tánh đức. Phần này luận về Tông Thú, đấy chính là Tu đức. Từ tánh khởi tu, toàn tu tại tánh. Tánh đức là điều ai cũng sẵn có, nhưng Tu đức là điều mỗi cá nhân phải nỗ lực tu tập để thành tựu.

 Kinh này lấy “Tín, Nguyện, Trì Danh” làm Tông; lấy việc “vãng sanh, viên chứng ba thứ Bất Thoái” làm Thú.

 Ba thứ Tín, Nguyện, Trì Danh (hay còn gọi là Tín, Nguyện, Hạnh) thường được gọi chung là Tư Lương. Ði xa cần phải dắt theo tiền bạc hòng chi dụng, đó gọi là Tư. Mang theo thức ăn, nước nôi, đó là Lương. Như vậy, Tư Lương chính là những phương tiện, vật dụng cần thiết cho bất cứ cuộc hành trình nào.

 Trong ba thứ Tư Lương nói trên, Tín là mấu chốt. Nếu niệm Phật tinh tấn nhưng vẫn chưa thể tin chắc mình sẽ được vãng sanh, chưa tin chắc vào bi nguyện của Phật Di Ðà lẫn cõi Tịnh Ðộ thì chẳng thể phát nguyện chân thành, thiết tha. Nếu tín, nguyện không có thì chẳng thể duy trì hạnh Trì Danh lâu dài được! Nếu thật sự tin sâu, nguyện thiết thì tự nhiên sanh khởi diệu dụng Trì Danh.  

1. Tín:

Tín là đoạn trừ hết thảy ngờ vực, nhưng lòng tin ấy do sự hiểu biết phát xuất từ trí, chứ không phải là tin tưởng một cách mù quáng.

 Tín gồm có bảy điều sau:

 

a. Tin vào lời Phật dạy:

Tin rằng pháp môn Niệm Phật đây chẳng phải do tà ma, ngoại đạo, quỷ thần vọng thuyết, mà do chính kim khẩu của đức Thích Tôn đích thân giảng ra. Ðức Phật là đại đạo sư của tam giới, là cha lành của bốn loài, là bậc quyết định không dối trá. Cổ đức đã nói: “Phật ngôn bất tín, thùy ngôn khả tín?” (chẳng tin lời Phật thì còn tin lời ai được nữa?) Do vậy, phải tin vào lời Phật, đừng nhận lầm kinh này chỉ là do Ðức Phật giả lập phương tiện, Cực Lạccảnh giới tưởng tượng, để đến nỗi tạo tội báng pháp như “tăng” Nhật Liên (khai tổ Tân Pháp Hoa Tông của Nhật Bản) dám phỉ báng kinh A Di Ðà này là ngụy tạo.

 Hơn nữa, pháp môn Niệm Phật được đề cập đến rất nhiều trong các kinh khác. Các pháp môn Tiểu Thừa, Quyền giáo đến thời Pháp Hoa - Niết Bàn đều bị bài xích, nhưng chưa hề thấy trong kinh điển nào Ðức Phật lại chỉ trích pháp môn này là quyền tạm, là phương tiện cả!

Ngoài ra, khi Ðức Phật thuyết kinh này, sáu phương chư Phật đều dị khẩu đồng âm xưng dương, tán thán. Ngay cả bản kinh được xưng tụng là “chúng kinh chi vương” (vua của mọi kinh) là kinh Pháp Hoa cũng chép: “Người tụng kinh này (kinh Pháp Hoa) khi mạng chung sẽ sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Ðà”. Vua trong Tam Tạng, được thế gian xưng tụng là mẹ của các kinh, tức là kinh Hoa Nghiêm, ngay trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện cũng quy hướng vãng sanh Tịnh Ðộ. Kinh báu của nhà Thiền là kinh Lăng Nghiêm, trong chương Thế Chí Niệm Phật Viên Thông cũng dạy: “Nhớ Phật, niệm Phật, tương lai nhất định thấy Phật”.

Kinh Ban Châu Tam Muội chép: “Bồ Tát nhập tam muội này liền thấy A Di Ðà Phật”. Kinh Mục Liên Sở Vấn chép: “Ta bảo cõi nước Vô Lượng Thọ dễ về, dễ sanh, mà không ai chịu tu hành vãng sanh, ngược lại còn thờ phụng 96 phái ngoại đạo. Ta bảo kẻ ấy [là hạng] không mắt, không tai!” Các kinh Bi Hoa, Ðại Vân, Ðại Tập, Quán Phật Tam Muội, Thập Trụ Ðoạn Kết, Văn Thù Bát Nhã, Bảo Tích, Tọa Thiền Tam Muội... đều đề xướng pháp môn Niệm Phật.

Các bộ luận Ðại Thừa cũng đề xướng pháp môn Niệm Phật, chẳng hạn như Ðại Trí Ðộ Luận chép: “Niệm Phật diệt trừ được các thứ phiền não và các tội nghiệp từ đời trước... [cho đến] niệm Phật có đại phước đức, độ được chúng sanh.... phước đức của các tam muội khác chẳng bằng được phước đức của Niệm Phật Tam Muội”. Tỳ Bà Sa Luận gọi Niệm Phật là đạo dễ hành, mau thoát sanh tử. Luận chép: “Phật có vô lượng pháp môn, như đường đi trên thế gian có dễ, có khó. Ði bộ thì khó, ngồi thuyền thì dễ. Muốn dễ được sanh hãy nên mau niệm A Di Ðà Phật”. Các bộ luận khác như Ðại Thừa Khởi Tín Luận của Bồ Tát Mã Minh, Vãng Sanh Tịnh Ðộ Luận của Ngài Thế Thân, Thập Nghi Luận của tổ Trí Khải, Nhiếp Ðại Thừa Luận, Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận... đều cực lực đề xướng pháp môn Niệm Phật.

Ngoài ra, trên thì như các vị thượng thủ Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Long Thọ, Mã Minh đều phát nguyện vãng sanh. Chư tổ sư như Ngài Lô Sơn Huệ Viễn, Bách Trượng thiền sư, Thanh Lương Quốc Sư (Ngài Trừng Quán), Linh Chi Nguyên Chiếu luật sư, Tử Bách Lão Nhân, U Khê đại sư, Trí Húc Linh Phong đại sư, Vân Thê Liên Trì đại sư, Hám Sơn đại sư... đều nhiệt thành hoằng truyền, tán dương Tịnh Ðộ.

Cận đại, bậc cao tăng nhà Thiền là Hư Vân Hòa Thượng, ngôi Thái Sơn Bắc Ðẩu của Thiên Thai tông là Ðế Nhàn pháp sư (xem tập Khai Thị Niệm Phật Khẩn Yếu), đại sư Thái Hư thuộc tông Duy Thức (xem Tịnh Ðộ Pháp Môn Tập), Hoằng Nhất đại sư bên Luật Tông (xem tác phẩm Nhân Sanh Tối Hậu) ngoài việc hoằng dương tông mình, đều cực lực xiển dương pháp môn Tịnh Ðộ.

Hãy thử nghĩ: Ðại Tạng Kinh đầy dẫy kinh luận, ngữ lục tán dương Tịnh Ðộ, lịch đại hiền triết đích thân tu tập, thành tựu vãng sanh; vậy thì Cực Lạc có phải là cõi tưởng tượng hay không? Kinh Di Ðà có phải là lời ngụ ngôn của đức Phật Thích Ca hay không?

 b. Tin vào Phật nguyện:

Chữ Phật ở đây chỉ đức A Di Ðà Phật, nguyện là nguyện lực, tức biển thệ nguyện lực vô biên của đức A Di Ðà Như Lai chân thật, không dối. Chúng ta phải tin rằng: Y báo, chánh báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc chính là do lực dụng vĩ đại của Phật đại nguyện lực tạo thành. Trong quá khứ, Ngài đã phát thậm thâm hoằng nguyện, bao đời tu hành khổ hạnh, chẳng thoái thất tâm ban đầu, nguyện nguyện trang nghiêm Tịnh Ðộ, tạo thành thế giới Cực Lạc thù thắng khôn sánh. Phật là bậc đại thánh nhân, tuyệt đối không thệ nguyện hư huyễn. Bốn mươi tám nguyện của Từ Phụ Di Ðà siêu tuyệt thệ nguyện của chư Phật, nên cổ đức tán thán: “Thập phương tam thế Phật, A Di Ðà bậc nhất”.

 c. Tin vào cõi Phật:

Tin cõi Cực Lạc thù thắng trang nghiêm, vượt trỗi hết thảy các cõi Tịnh Ðộ trong mười phương. Mỗi mỗi sự tướng trong cõi ấy đều thù thắng khôn sánh, đều phát xuất từ lực dụng A Di Ðà Như Lai đại thệ nguyện hải.

d. Tin vào pháp môn:

Tin pháp môn Niệm Phật độ khắp ba căn, thượng căn là bậc Ðẳng Giác như Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù v.v..., trung căn như chư tổ Tây Thiên, Ðông Ðộ: Long Thọ, Mã Minh, Huệ Viễn, Ngẫu Ích, Liên Trì v.v... ; hạ căn như kẻ ngu phu, ngu phụ, ngũ nghịch, thập ác, chim vẹt, chim sáo v.v... Hễ ai chịu phát tâm niệm Phật cầu được vãng sanh thì đều được đới nghiệp vãng sanh, được Phật từ bi rủ lòng tiếp dẫn. Dẫu là hàng Ðẳng Giác Bồ Tát cũng chẳng thoát khỏi phạm vi tiếp độ của pháp môn này. Bởi thế, pháp môn Niệm Phật chính là tu trọn muôn hạnh, một câu hồng danh trọn đủ vạn đức. Hành nhân Tịnh Ðộ phải tin pháp môn này là tối thắng, tối diệu, bất tất phải tu kèm các pháp môn khác. Pháp môn này chắc chắn độ chúng sanh vĩnh viễn thoát khỏi sanh tử, rốt ráo thành Phật. Dù hành nhân còn đầy dẫy phiền não vẫn có thể đới nghiệp vãng sanh, đắc bất thoái chuyển.

 e. Tin vào tự tâm:

Bổn tánh của chúng ta linh giác bất muội, chân tâm ta thường trụ bất biến, chẳng hề khác biệt gì với chân tâm của đức Di Ðà. Nhưng từ vô thỉ đến nay, tâm ta bị phiền não che lấp, nên phải luân hồi sanh tử chẳng ngơi. Nhất tâm niệm Phật, dùng vạn đức hồng danh của Phật Di Ðà huân tập tâm ta, sẽ tiêu diệt được nghiệp chướng trong ức kiếp sanh tử. Khi hoặc chướng đã tiêu trừ hết thì sẽ tự nhiên chứng đắc Chánh Giác.

Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Hết thảy chúng sanh vốn sẵn đủ tướng đức, trí huệ của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng chấp trước nên chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng thì Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên Trí, Vô Ngại Trí đều sẽ hiện tiền”. Bởi đó, duy tâm Tịnh Ðộ ai cũng có phần, đừng tự khinh mình là phàm phu, nghiệp nặng cấu dày, chẳng có duyên phận chi với cõi Cực Lạc. Tuy ta là phàm phu điên đảo mê hoặc, nhưng chân tâm này chẳng mất. Nếu một niệm hồi quang phản chiếu, giữ chắc Phật hiệu, quyết sẽ được vãng sanh. Tâm tánh chúng ta vốn chẳng thể nghĩ bàn, A Di Ðà Phật lực chẳng thể nghĩ bàn, sáu chữ hồng danh cũng chẳng thể nghĩ bàn. Dùng tâm chẳng thể nghĩ bàn trì niệm danh hiệu chẳng thể nghĩ bàn để vãng sanh về cõi nước thù thắng do nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn tạo thành là chuyện thập phần xác đáng, còn ngờ chi nữa!

 f. Tin vào sự lý:

 Tin vào sự lý viên dung.

* Tin Sự là tin ở phía Tây thế giới Sa Bà này, cách đây mười vạn ức cõi Phật, quả thật có cõi Cực Lạc, chúng sanh cõi ấy không có các nỗi khổ, y báo, chánh báo trang nghiêm. Nếu chúng ta trong một đời này tin sâu, nguyện thiết, chắc thật trì danh, sẽ chắc chắn được liên hoa hóa sanh, vĩnh viễn thoát khỏi khổ nạn, đắc đại giải thoát.

 Nếu có kẻ cật vấn:

- Ðại Thừa Bát Nhã dạy hết thảy pháp là không. Nếu hết thảy đã là không, sao còn có thuyết “thật có cõi Tây Phương Cực Lạc?” Kinh luận còn dạy: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” thì làm sao ở ngoài tâm thức, lại có thể có tịnh độ của chư Phật được?

Ðáp:

- Ôi chao! Lời nạn ấy thật là vì chưa hiểu rõ đạo lý “viên dung nhất thật” của nhà Phật vậy! Phải biết rằng nhà Phật nói “không” đó là để phá chấp, tức là đối với Có mà nói Không. Nhưng Có mà chẳng phải Có mới là Diệu Hữu, Không chẳng phải là Không mới là Chân Không. Nên biết rằng hết thảy pháp đều do nhân duyên sanh, vốn chẳng có tự tánh. Duyên sanh bèn có, duyên diệt thành không. Do vô tự tánh nên bảo hết thảy pháp là không. Do vì duyên sanh nên bảo hết thảy pháp là có. Bởi vậy mới bảo là Chân Không chẳng lìa Diệu Hữu, Diệu Hữu chẳng ngại Chân Không. Thế nên duy tâm chẳng ngại Tịnh Ðộ, Tịnh Ðộ cũng chẳng phương ngại gì đến cái Không của duy tâm. Nếu bảo: “Duy tâm tịnh độ, tịnh độ duy tâm” thì còn đúng; chứ khăng khăng chỉ có chân không, chẳng hề có Tịnh Ðộ, thì sẽ thành ra mâu thuẫn.

Hơn nữa, một niệm hiện tiền của chúng ta chẳng thể cùng tận, mười phương thế giới do tâm ta biến hiện cũng chẳng thể cùng tận. Kinh dạy: “Hư không vô tận, thế giới vô tận”. Thế nên chẳng những chỉ cõi Tây Phương Cực Lạc tồn tại, mà cõi thế giới Lưu Ly ở phương Ðông, vô lượng các thế giới cũng mỗi mỗi đều chắc chắn tồn tại.

* Tin Lý là:

Một niệm tâm hiện tiền của chúng ta đây xét theo chiều dọc thì trùm khắp ba đời, xét theo chiều ngang thì chứa trọn mười phương. Bởi thế mới nói: “Vô biên cõi nước, tự - tha chẳng cách mảy lông”. Mười vạn ức cõi nước khác gì ở ngay trước mắt! Phật tâm bao gồm khắp tất cả, tâm ta cũng bao gồm khắp tất cả, cõi nước cũng bao trùm khắp tất cả, như ánh sáng của ngàn ngọn đèn đặt trong một căn nhà, trùng trùng giao thoa, soi sáng lẫn nhau chẳng hề trở ngại. Y báo, chánh báo, chủ - bạn cõi Tây phương đều hiện bóng trong một niệm tâm hiện tiền của chúng ta. Toàn thể sự chính là lý, toàn bộ vọng chính là chân, toàn thể Tha chính là Tự, nào nhọc phải tìm cầu tự tánh đâu xa, chính nội tâm là Phật Di Ðà.

Nhưng chẳng nên chấp lý bỏ sự, cũng chẳng thể chấp sự mê lý. Chấp lý phế sự thì lý chẳng thể viên dung. Chấp sự mê lý thì công hạnh chẳng cao. Nhưng thà cứ chấp sự mà siêng năng tu tập ắt sẽ chẳng uổng công, quyết được vãng sanh! Nếu chấp lý, hoàn toàn không dụng công thực hành, chỉ e mắc phải họa Thiên Không. Bởi vậy, nếu có thể viên dung giải ngộ lý sự một cách sâu xa thì mới là tận thiện, tận mỹ vậy!

g. Tin vào nhân - quả:

Cái có khả năng sanh trưởng là Nhân, giống như hạt giống; cái do nhân ấy được thành tựu gọi là Quả. Lại nữa, việc làm ban đầu là Nhân, cảm thọ hậu báo là Quả. Nhân nào, quả nấy là lẽ tự nhiên. Mọi việc trên thế gian này không việc gì chẳng do Nhân mà kết thành Quả cả.

Nay ta phát một niệm chân tâm, niệm Phật là Nhân, quyết định vãng sanh thế giới Cực Lạc, rốt ráo thành Phật là Quả. Dẫu tán tâm xưng danh vẫn kết thành hạt giống Như Lai, vãng sanh Tịnh Ðộ; huống hồ là niệm được nhất tâm bất loạn, lẽ nào chẳng được vãng sanh ư?

2. Nguyện:

Nguyện là phát nguyện vãng sanh. Dẫu có lòng tin sâu đậm, nhưng nếu chẳng phát nguyện vẫn khó lòng thành tựu, chẳng đạt được lợi ích thực sự. Cũng như bệnh nhân nghe bác sĩ bảo có thứ thuốc nọ rất hay, cũng tin tưởng là thứ thuốc ấy rất tuyệt, nhưng chẳng chịu uống thuốc. Ðã không chịu uống thuốc, còn mong lành bệnh sao được!

Ðã biết Sa Bà là khổ, là nhơ uế, thì cần phải buông bỏ, phải chán lìa. Ðã biết Tây Phương là vui, là thanh tịnh, thì phải nên cầu, nên ưa thích. Ðấy mới chính là mục đích của hành nhân Tịnh nghiệp.

Nguyện gồm có sáu điều:

a. Nguyện bỏ hết thảy các phiền não tham, sân, si... nhất tâm cầu sanh Cực Lạc.

b. Nguyện từ nay trở đi vĩnh viễn chẳng khởi các ác nghiệp để khỏi đọa vào tam ác đạo, cầu sanh Cực Lạc

c. Nguyện bao nhiêu thiện nghiệp đã tạo chẳng vì cầu sanh trong cõi trời người thọ hưởng phú quý, chuyên tâm nhất ý hồi hướng, nguyện cầu vãng sanh Cực Lạc.

d. Nguyện dù gặp phải tai nạn, nghịch cảnh, bệnh khổ đến thế nào đi nữa, trọn chẳng thay đổi tấm lòng niệm Phật.

e. Nguyện bao nhiêu công đức do trì giới, bố thí, tụng kinh, lễ Phật... đều hồi hướng về Tịnh Ðộ, để làm trợ duyên cho việc vãng sanh.

f. Nguyện pháp giới hết thảy chúng sanh cùng phát tâm niệm Phật, cùng sanh Cực Lạc.

Nói tóm lại, nguyện tâm tha thiết, vãng sanh chẳng khó gì! Nếu chẳng phát nguyện, hoặc nguyện tâm chẳng tha thiết sẽ trọn chẳng được sanh về thế giới Cực Lạc. Dẫu có lòng tin thì lòng tin ấy cũng chỉ là hư dối, chẳng thọ hưởng lợi ích thật sự nào; bởi thế phải nên phát nguyện chân thành, tha thiết.

3. Trì Danh: 

 Trì là chấp trì (nắm giữ), Danh là danh hiệu. Vì sao cần phải trì danh? Trì niệm một câu hồng danh A Di Ðà Phật thì sẽ được đầy đủ mọi đức, thâu tóm trăm hạnh (đấy là vì danh hiệu A Di Ðà bao gồm vạn đức, trong phần giải thích danh hiệu A Di Ðà sẽ luận rõ hơn). Ðấy là do công đức chẳng thể nghĩ bàn của A Di Ðà Như Lai vậy. Nếu chỉ đủ tín nguyện mà chẳng chân thật tu trì vẫn chẳng được vãng sanh; khác nào bánh vẽ chẳng thể đỡ đói, khác nào suốt đời đếm của báu cho người, tự mình chẳng được lợi lạc gì!

 Trong bốn pháp niệm Phật (Thật Tướng, Quán Tưởng, Quán Tượng, Trì Danh), Trì Danh là pháp tu rộng rãi nhất (vì mọi căn cơ đều tập được), hạ thủ dễ dàng, nhanh chóng, là pháp tu phương tiện bậc nhất trong các pháp phương tiện, là pháp viên đốn tối cực, là pháp vô thượng liễu nghĩa. Kinh này chuyên dạy pháp Trì Danh, nên chúng ta phải tận lực trì danh chẳng phân biệt ngày đêm, chẳng luận bận, rảnh, chỉ khăng khăng chấp trì sáu chữ Di Ðà hồng danh chẳng quên, thì sẽ tự nhiên đạt được nhất tâm bất loạn, lâm chung quyết định được Phật tiếp dẫn vãng sanh. Nếu tâm niệm Phật lơ là, hời hợt, quyết chẳng được vãng sanh. Dù chẳng được vãng sanh, vẫn gieo trồng thiện căn thành Phật trong đời tương lai. Bởi thế cổ đức bảo: “Tán xưng vi Phật chủng, chấp trì đậu bất thoái” (tán tâm xưng danhchủng tử Phật, chấp trì [danh hiệu] sẽ đạt được bất thoái).

 Hành nhân niệm Phật phải có tín tâm kiên cố, chẳng bị hết thảy tà ma, ngoại đạo, tà sư khuấy động, đến nỗi hủy báng đánh mất đạo tâm. Ðại nguyện phải kiên cố, chẳng bị lay động bởi nghịch cảnh, danh lợi, quyền thế, đến nỗi thoái thất đạo tâm. Trì danh phải chuyên tâm thiết tha, đừng nên tạp tu, lơ là, chớ có hễ gặp chuyện bất như ý liền buông xuôi chẳng niệm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13736)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25447)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13820)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15149)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17750)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17142)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14258)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13233)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14489)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19828)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16782)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18681)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19112)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18939)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21201)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14830)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39218)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14458)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19442)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14766)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16188)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14751)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15258)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14962)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15601)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39222)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14176)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24578)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14432)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19505)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 18074)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21516)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19725)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17556)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14891)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13933)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13807)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14160)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21957)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16776)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15269)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14589)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14105)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14396)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15701)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14357)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 15064)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18619)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24721)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23157)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28615)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15092)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14153)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14696)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18367)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26568)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15245)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14889)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15235)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15208)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant