Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

V. Tạng giáo sở nhiếp

16 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 15613)
V. Tạng giáo sở nhiếp


A DI ÐÀ KINH HỢP GIẢI

Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa hợp dịch

V. TẠNG GIÁO SỞ NHIẾP (phân định kinh này thuộc về tạng nào, thời giáo nào)

Tạng có nghĩa là tích chứa, tàng trữ. Giáo pháp một đời đức Phật đã thuyết được kết tập thành tạng. Tạng có hai loại: Nhị TạngTam Tạng.

 - Nhị TạngBồ Tát tạngThanh Văn tạng.

 - Tam TạngKinh Tạng, Luận TạngLuật Tạng.

1. Phán định về Tạng:

Kinh này từ đầu đến cuối không đề cập đến việc trì giới, cũng chẳng luận nghị, chỉ chuyên dạy niệm Phật, phát nguyện cầu sanh Tây Phương Tịnh Ðộ nên phải thuộc về Kinh Tạng.

Kinh này lại hoằng dương Ðại Thừa, tuyên dương đấng Giáo Chủ cõi Cực Lạc, dù dạy chúng sanh chán khổ ưa vui, cầu sanh Cực Lạc, nhưng cốt yếu là để gặp Phật nghe pháp, ngộ Vô Sanh Nhẫn rồi sẽ trở lại Sa Bà, giáo hóa chúng sanh. Ðấy đều là hạnh Bồ Tát, cho nên kinh này phải thuộc về Bồ Tát Tạng.

2. Phán định giáo tướng:

Những lời chư Phật, chư thánh giảng dạy được gọi là Giáo. Việc phân định, xếp loại thứ tự thánh giáo của đức Như Lai thường được gọi là “phán định giáo tướng” hay gọi tắt là “phán giáo”.

 * Theo đại sư Khuy Cơ, tính cho đến thời Ðại Sư, đã có những thuyết phán giáo sau đây:

a. Thuyết Nhất Thời Giáo: do Ngài Tam Tạng Bồ Ðề Lưu Chi (Tàu dịch là Giác Thọ) đời Bắc Ngụy đề xướng. Nghĩa là tuy giáo pháp của đức Phật chỉ có một thời, nhưng vì có hai ý nghĩa bất đồng nên tựa hồ có nhiều giáo pháp:

 a.1. Giáo đồng căn dị: Như nước mưa chỉ có một vị, nhưng ba loại dược thảo, hai loại cây cối được thấm nhuần sai khác. Tức là giáo pháp vốn chỉ là một, nhưng chúng sanh ngộ giải bất đồng, do căn cơ chúng sanh khác nhau nên tựa hồ có nhiều giáo pháp khác nhau.

 a.2. Lý đồng chứng dị: Lý tuy chỉ một nhưng sự chứng đắc của tam thừa có sai khác, như cùng một dòng sông, ba loài thú cùng lội qua, chân đạp xuống nước sâu cạn sai khác.

b. Thuyết Tiệm Ðốn Giáo: do Ngài Ðàm Vô Sấm đời Tống lập ra.

 b.1. Ðốn giáo là những thuyết như nhị không, tam tánh, tam vô tánh, bát thức, nhị vô ngã v.v...

 b.2 Tiệm giáo là những giáo pháp như Tứ Ðế, Duyên Sanh, Ngũ Giới, Bát Giới v.v...

c. Thuyết Tam Thời Giáo (còn gọi là Tam Giáo): do Ngài Chân Ðế Tam Tạng Pháp Sư thời Lương đề xướng. Tam thời giáo là:

 c.1. Hữu giáo: trong vòng 7 năm đầu kể từ khi thành Phật, đức Thế Tôn nói ra Hữu giáo, dùng pháp Thanh Văn để độ các vị như năm anh em Kiều Trần Như, Xá Lợi Phất, Ca Diếp v.v... 

 c.2. Không giáo: Từ năm thứ tám đến năm thứ ba mươi tám, Ðức Phật chuyên giảng về học thuyết Bát Nhã. Ðó là Không Giáo.

 c.3. Phi hữu phi không giáo: Từ năm thứ 39 cho đến khi Phật nhập Niết Bàn, Ngài chuyên giảng về giáo pháp phi hữu phi không như các kinh Pháp Hoa, Lăng Già, Tư Ích...

d. Thuyết Tứ Thời Giáo: do Khuất Ða Cấp Ða Tam Tạng đề xướng; chia một đời giáo hóa của đức Như Lai thành bốn thời:

 d.1. Sanh không giáo: tức là thời gian trong 12 năm đầu sau khi thành Phật, đức Thế Tôn giảng thuyết các bộ kinh giảng về nhân không như A Hàm... 

 d.2. Pháp không giáo: Từ năm thứ 13 đến năm thứ 38, Phật giảng các bộ kinh dạy về pháp không như tám bộ Bát Nhã v.v...

 d.3. Pháp tướng giáo: Từ năm thứ 39 đến năm thứ 49, Phật giảng các kinh như Lăng Già, Tư Ích, Pháp Hoa v.v... chỉ bày các pháp như bách pháp, tam tánh, tam vô tánh, bát thức, nhị vô ngã v.v... Do chú trọng đến phân chia danh mục, số loại của các pháp nên gọi là Pháp Tướng.

 d.4. Quán hạnh giáo: tức là thời gian giảng về pháp môn Pháp Giới Quán của kinh Hoa Nghiêm...

e. Thuyết Ngũ Thời Giáo: do Lưu Cư Sĩ đời Tấn đề xướng, chia giáo pháp thành năm thời:

 e.1. Nhân thiên giáo: là những giáo pháp được giảng trong 21 ngày sau khi Ðức Phật thành đạo; gồm các giáo pháp như Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện v.v... vì thính chúng chưa có thiện căn xuất thế. Thuyết này bị Ngài Giác Thọ (Bồ Ðề Lưu Chi) bắt bẻ: “Kinh Ðề Vị nói nhóm năm trăm người lái buôn như Ðề Vị v.v... thọ Ngũ Giới, Phật dạy họ trước hết phải sám hối các tội Ngũ Nghịch, Thập Ác. Thế Tôn dạy: ‘Tứ đại vốn tịnh, cái Ta vốn tịnh’, Ðề Vị liền đắc Vô Sanh Nhẫn; năm trăm người lái buôn đắc Nhu Thuận Nhẫn. Lẽ nào đấy chỉ là giáo pháp thuộc nhân thiên ư?”

 e.2. Sanh không giáo: tức là giáo pháp Nhị Thừa được giảng trong mười hai năm đầu tiên.

 e.3 Pháp không giáo: là những giáo pháp được giảng trong mười tám năm kế đó.

 e.4. Câu không giáo: tức là thời gian giảng tám bộ Bát Nhã.

 e.4. Phi hữu phi không giáo: tức là thời gian từ năm thứ 49 sau khi Ðức Phật thành đạo trở đi. Thời gian này Ngài giảng các kinh như Lăng Già, Pháp Hoa v.v...

 Ðại Sư Khuy Cơ chỉ nêu ra các giáo như thế nhưng không khẳng định kinh này thuộc về giáo nào trong những thuyết trên. Tuy thế, những thuyết phán giáo trên đây không được phổ biến và vận dụng rộng rãi bằng hai thuyết Ngũ Thời Bát Giáo của tông Thiên ThaiNgũ Giáo của tông Hoa Nghiêm.

a. Ngũ thời Bát giáo:

a.1. Bát giáo:

Bát giáo gồm “hóa nghi tứ giáo” (bốn phương pháp hóa độ thuận theo căn cơ) và “hóa pháp tứ giáo” (bốn phương pháp giáo hóa dựa theo mức độ giải ngộ).

Hóa nghi tứ giáo gồm: Ðốn, Tiệm, Bất Ðịnh, Bí Mật. Hóa pháp tứ giáo gồm Tạng (Tiểu Thừa), Thông (bao gồm cả Tiểu Thừa lẫn Ðại Thừa, nhưng mới chỉ là những giáo pháp sơ khởi của Ðại Thừa), Biệt (giáo pháp Ðại Thừa dành riêng cho hàng Bồ Tát), và Viên (những giáo pháp viên dung vô ngại, hàm nhiếp trọn vẹn tất cả các giáo pháp, là giáo pháp cao tột nhất trong các giáo pháp Ðại Thừa).

a.2. Ngũ thời:

- Thời Hoa Nghiêm: Phật hiện thân to lớn, giảng kinh Hoa Nghiêm cho những bậc căn cơ Ðại Thừa viên đốn, chuyên giảng về Viên Giáo, nhưng đôi chỗ có kèm Biệt giáo.

- Thời A Hàm: Phật hiện thân trượng sáu, giảng pháp cho thính chúng căn cơ Tiểu Thừa, chỉ dạy về Tạng GiáoNhị Thừa Tiểu Quả.

 - Thời Phương Ðẳng: đối với căn cơ Tiểu Thừa, Phật giảng Tạng Giáo; đối với căn cơ Ðại Thừa, Phật dạy Viên, Thông, Biệt Giáo.

 - Thời Bát Nhã: dù kiêm thuyết lý tánh quyền hiện, nhưng chủ yếu là Thật Lý viên mãn của Viên Giáo.

 - Thời Pháp Hoa - Niết Bàn: quy nhiếp Tam Thừa về Nhất Thừa, khai thị tri kiến Phật.

b. Ngũ Giáo

Tức là:

- Tiểu (Tiểu Thừa): chỉ giảng pháp không, chưa giảng Ngã Không.

- Thỉ (Ðại Thừa Thỉ Giáo): căn cứ trên sự sanh diệt của tám thức, kiến lập những giáo nghĩa sanh tử, Niết Bàn, bàn rộng pháp tướng, nhưng chỉ mới luận đôi phần về pháp tánh. Tuy đã giảng về Tam Thừa, nhưng chưa hứa khả hàng định tánh Thanh Văn và Nhất Xiển Ðề có khả năng thành Phật. Vì chưa bàn cùng tột giáo lý Ðại Thừa nên gọi là Thỉ (bắt đầu).

- Chung (Ðại Thừa chung giáo): bàn cùng tận giáo nghĩa Ðại Thừa, căn cứ vào bát thức của Như Lai Tạng tùy duyên bất biến để lập giáo nghĩa, chú trọng đến pháp tánh, nhưng chỉ luận đôi chút về pháp tánh, chưa giảng chi tiết. Dù có giảng pháp tướng đi nữa, cũng đều quy về pháp tánh. Chung Giáo công nhận Xiển Ðề có khả năng thành Phật.

- Ðốn: Chỉ luận về Thật Tướng. Một niệm bất sanh thì gọi là thành Phật. Không cần bận tâm đến thứ tự tu tập từng bước nên gọi là Ðốn (nhanh chóng).

- Viên: Viên Giáo bao trùm cả bốn giáo trên, viên dung đầy đủ muôn pháp, duyên khởi vô ngại, pháp giới vô tận, không còn phân biệt giữa sự và lý nữa nên gọi là Viên (trọn vẹn).

3. Phán định giáo tướng của kinh này:

Nếu xét theo cách phán giáo của tông Hoa Nghiêm, kinh này thuộc về Viên Giáo lẫn Ðốn Giáo. Xét theo cách phán giáo của tông Thiên Thai, kinh này tuy nằm trong thời Phương Ðẳng, nhưng lại thuộc về Viên Giáo.

Bởi Tạng giáoThông Giáo chẳng đề cập đến danh hiệu chư Phật ở phương khác, nên kinh A Di Ðà chẳng thể thuộc về Tạng và Thông giáo.

Người niệm Phật lại có thể vượt ngang ra khỏi ba cõi, vãng sanh Cực Lạc, đồng chứng ba thứ bất thoái nên kinh này phải thuộc về Ðốn Giáo.

Trong năm thời, thời Hoa Nghiêm nhằm lúc Phật mới thành đạo, Ngài vì hàng pháp thân đại sĩ giảng giải cảnh giới Như Lai, chúng Thanh Văn ngồi dự pháp hội như đui, như điếc, chẳng lãnh hội được gì. Kinh này lại chuyên dạy chúng sanh đời mạt, ác thế ngũ trược, niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ, nghĩa là: đối tượng được hóa độ của kinh này là hết thảy hữu tình, nên kinh này không thể nào thuộc về thời Hoa Nghiêm được.

Trong thời A Hàm, Phật chuyên dạy pháp Tiểu Thừa. Thế nhưng kinh này luận về công đức trang nghiêm y báo, chánh báo cõi Cực Lạc, cũng như ý chỉ huyền nhiệm rốt ráo thành Phật, nên cũng không thể nào thuộc về thời A Hàm được.

Trong thời Bát Nhã, Ðức Phật chuyên luận về những pháp mà Bồ Tát phải học. Kinh này chẳng phân biệt căn cơ chúng sanh, bất cứ ai nếu chí thành niệm Phật đều có thể được vãng sanh. Bởi đó, kinh này chẳng thể thuộc về thời Bát Nhã.

Thời Pháp Hoa khai quyền hiển thật (vạch rõ những pháp phương tiện, trực chỉ thật lý Nhất Thừa), khai thị tri kiến Phật; thế nhưng kinh này chỉ chuyên dạy Trì Danh, nên chẳng thuộc về thời Pháp Hoa được.

Bởi những lẽ trên, kinh này phải thuộc về thời Phương Ðẳng.

Hơn nữa, kinh Di Ðà bao hàm diệu lý viên đốn, trước thì thông tiếp kinh Hoa Nghiêm, sau thì thông tiếp kinh Pháp Hoa; cho nên phán định kinh này thuộc về thời Phương Ðẳng rất hợp lý

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19820)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28933)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20653)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19398)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30456)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36388)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33180)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35509)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20943)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21904)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25241)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25769)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31230)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18549)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25122)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23750)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28904)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20836)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31426)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25524)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29691)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22485)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25695)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23247)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25725)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23713)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40582)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23333)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22424)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22064)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23494)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16948)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23270)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24286)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41062)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18964)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20462)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27707)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38085)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34045)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36765)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 23973)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29164)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60112)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27576)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68690)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24490)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24455)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22663)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26329)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26503)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20785)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20033)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27533)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46372)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53542)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23584)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21071)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25543)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29228)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant