Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

II. Hiển thể

16 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 16113)
II. Hiển thể


A DI ÐÀ KINH HỢP GIẢI

Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa hợp dịch

II. HIỂN THỂ (minh định thể tánh của kinh này)

 “Thể” là thể tánh (bản thể, bản chất). Thể tánh của một bản kinh được gọi là Giáo Thể, đôi khi còn gọi một cách tổng quát là Lý Thể. Theo đại sư Bân Tông: “Lìa hết thảy các tướng thì gọi là Tánh; chỗ hết thảy các nghĩa quy về gọi là Lý. Nghĩa trọng yếu của các pháp gọi là Thể”. Phô bày minh bạch yếu chỉ của một bản kinh, nêu rõ chỗ quy hướng của các giáo nghĩa được dạy trong kinh ấy thì gọi là “hiển thể”.

 Nói một cách khác, hiển thể một bản kinh chính là minh định chân lý sẽ được phô diễn bởi bản kinh ấy. Một bản kinh nếu không có Thể thì thành ra ma thuyết, ví như một kẻ chỉ có cái tên, chẳng có thân thể thật. Mỗi một câu, một chữ trong kinh Phật đều nhằm mục đích vận dụng ngôn ngữ, danh tự để người nghe lãnh hội được chân lý. Bởi vậy, muốn thể hội được huyền nghĩa của kinh, điều tiên quyết là phải nhận chân thể tánh của kinh ấy là gì.

 Nói chung, tất cả các kinh Ðại Thừa đều lấy Thật Tướng làm Thể.

Thật Tướng chính là cái tâm hiện tiền của chúng ta, vô hình, vô tướng, chẳng sanh, chẳng diệt, rỗng rang, bao trùm vạn pháp, không sót một mảy gì. Muôn pháp sanh diệt chỉ là những điều hư vọng ảnh hiện trong tâm.

Chân tâm của ta dẫu suốt ngày ở trong vọng, nhưng luôn chân thường. Tâm ấy dẫu hằng tiếp xúc với muôn vật, muôn pháp, vẫn thường sáng tỏ, phân biệt mọi sự, mọi pháp rõ ràng không chướng ngại. Kinh thường diễn tả bằng câu “linh quang độc diệu, hồi thoát căn trần” (có thể tạm hiểu là: xét về bản thể, tâm ấy thiêng liêng, sáng suốt, duy nhất, chiếu rực, không vướng vào căn, trần. Gọi là thiêng liêngtác dụng nhận biết của tâm ấy luôn hiện hữu, không bị biến cải, không sai sót. Sáng suốt vì không bị trần cảnh làm ô nhiễm. Tâm ấy nhận thức rõ mọi pháp không ngăn ngại nên gọi bảo là chiếu rực. Tâm Phật và tâm chúng sanh đồng một thể nên gọi là duy nhất)

Thật Tướng có thể chia thành hai loại:

1. Vô Tướng Thật Tướng: lìa hết thảy tướng điên đảo, hư vọng chính là Thật Tướng chân như, bình đẳng.

2. Vô Bất Tướng Thật Tướng: trong các pháp sanh diệt, tồn tại một tánh bất sanh, bất diệt. Tướng sanh diệt hư vọng ấy chỉ là biệt tướng (tướng riêng của mỗi pháp). Những tướng sanh diệt hư vọng ấy dù thiên sai vạn biệt, nhưng đều không có thực thể, cho nên gọi là “vô tướng”. Nhưng tánh bất sanh bất diệt lại chân thật chẳng hư vọng, chúng sanh và Phật đồng một thể, thánh phàm chẳng hai. Cái Chân Như thật tánh bình đẳng ấy lại chẳng phải là vô tướng, nên gọi là “vô bất tướng”.

Ðể dễ hình dung xin mượn một thí dụ: sóng phát sanh từ nước, sóng chính là nước. Sóng có to nhỏ, nhưng tánh ướt chẳng đổi. Cũng thế, tánh Chân Như bình đẳng bất biến, nhưng tùy duyên có thể sanh khởi những tướng trạng sai biệt cho vạn vật, tùy duyên nhưng bất biến. Bởi thế, xét đến bản chất thì mọi tướng trạng sai biệt của vạn pháp, không tướng nào chẳng lấy tánh Chân Như bình đẳng làm thể.

Nếu xét tỷ mỉ, mỗi kinh lại lấy một khía cạnh của Thật Tướng làm thể. Chẳng hạn, kinh Hoa Nghiêm lấy “nhất chân pháp giới” làm thể, kinh Lăng Nghiêm lấy Như Lai Tạng Diệu Chân Như tánh làm thể.

Riêng về kinh Di Ðà, chư sư cùng đồng ý kinh này lấy Thật Tướng làm tổng thể. Pháp sư Văn Châu giải thích:

“Kinh này chú trọng niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, đấy chính là Thật Tướng mà cũng chính là Chân Như. Vì thế, cũng giống như các kinh điển Ðại Thừa khác, kinh này lấy Thật Tướng ấn làm giáo thể...

Nếu xét trên phương diện sự tướng niệm Phật, phải lấy sự trang nghiêm của y báo, chánh báo cõi Cực Lạc làm Thể.

Ðối với bậc thượng căn lợi trí, từ hữu tướng niệm Phật, họ sẽ đạt đến vô tướng niệm Phật, hiểu thấu suốt một niệm hiện tiền chẳng phải ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở khoảng giữa, chẳng phải quá khứ, hiện tại, vị lai, chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, chẳng phải ngắn dài, vuông, tròn, thậm chí vô phi, bất phi, lìa hết thảy tướng tức là hết thảy pháp. Ngay khi đó, Pháp Thân hiển hiện, Tịch Quang hiển hiện, còn phân biệt gì là y báo, chánh báo trang nghiêm nữa! Bởi thế giáo thể của kinh này hoàn toànThật Tướng.

...Y báo, chánh báo trang nghiêm của cõi Phật Di Ðà đều phát xuất từ Chân Như tự tánh, cho nên kinh này lấy Chân Như Bình Ðẳng Thật Tướng làm Thể”.

Riêng về biệt thể, pháp sư Bân Tông cho rằng kinh này lấy bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh làm thể. Bân pháp sư giảng như sau:

“Vô sanh, vô diệt, thường hằng bất biến là Thường. Tịch diệt, vĩnh viễn an ổn, vĩnh viễn xa lìa các nỗi khổ là Lạc. Tự tại giải thoát, chân như vô ngại là Ngã. Lìa hết thảy trần, tuyệt các cấu nhiễm là Tịnh.

...Trước hết, minh định bốn đức của Y Báo:

- Cõi ấy không có thành, trụ, hoại không; ấy là Thường.

- Có lầu gác bảy báu, lưới giăng, cây báu mọc thành hàng, ao tắm, chim quý, thiên nhạc v.v... vô lượng trang nghiêm, mỗi mỗi đều vừa lòng thỏa ý. Ðó là Lạc.

- Thế giới Cực Lạc trang nghiêm thù thắng, việc gì cũng như ý, mọi thứ hóa hiện, không có cảnh trái nghịch, luôn có niềm vui tùy thuận. Ðó là Ngã (Ngã có nghĩa là Tự Tại).

- Thế giới Cực Lạc hoàng kim làm đất, bảy báu làm ao, tất cả mọi vật đều thanh tịnh trang nghiêm, có năm niềm vui thanh tịnh, không có nỗi khổ ngũ trược. Ðó chính là Lạc.

Tiếp đến minh định bốn đức của Chánh Báo:

- Thọ mạng của Ðức Phật và chúng sanh vãng sanh cõi ấy đều vô lượng, kéo dài bao kiếp chẳng tận. Ðó là Thường.

- Hết thảy hữu tình sanh về cõi ấy liền được thân tâm tịch chiếu, vĩnh viễn không có phiền não. Ðó chính là Lạc.

- Một phen đã vãng sanh cõi ấy, liền đoạn diệt được ngũ trụ (2), vĩnh viễn lìa khỏi nhị tử (phần đoạn và biến dịch sanh tử), được đại tự tại. Ðấy chính là Ngã.

- Trong thế giới Cực Lạc, chúng sanh niệm Phật được vãng sanh về đấy đều là liên hoa hóa thân, thanh tịnh, nhiệm mầu thù thắng, tướng hảo trang nghiêm; tấm thân ô uế do tứ đại giả hợp thành của chúng sanh cõi Sa Bà làm sao so sánh được! Ðấy chính là Tịnh.

 Lại nên biết rằng: tứ đức (Thường, Lạc, Ngã, Tịnh) là tự tánh Di Ðà, mà cũng chính là Phật tánh sẵn có của mỗi người chúng ta, còn gọi là Pháp Thân. Mê thì là chúng sanh, ngộ thì thành chư Phật. Nếu ai phát tâm niệm Phật, liền được vãng sanh thế giới Cực Lạc, hoa nở gặp Phật, đắc Vô Sanh Nhẫn, thân chứng Pháp Thân.

Pháp Thân ấy bất sanh, bất diệt, chẳng đến, chẳng đi, chính là Thường đức. Pháp Thân rốt ráo tịch diệt, vĩnh viễn lìa khỏi sanh tử, tức là Lạc đức. Pháp Thân tự tại vô ngại, rốt ráo giải thoát, tức là Ngã đức. Pháp Thân tuyệt các cấu nhiễm, vốn sẵn thanh tịnh, tức là Tịnh đức...

Hơn nữa, kinh chép: ‘Ðều được bất thoái chuyển nơi A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề’ là nghĩa Thường. Lại chép: ‘Không có các điều khổ, chỉ hưởng các điều vui’ là nghĩa Lạc. Lại chép: ‘Tự nhiên đều sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Người ấy lúc mất tâm không điên đảo’ là nghĩa Ngã. Lại chép: ‘Nhất tâm bất loạn’ là nghĩa Tịnh”.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19836)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28944)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20670)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19410)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30474)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36410)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33195)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35534)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20961)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21910)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25249)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25783)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31235)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18551)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25130)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23758)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28919)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20850)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31440)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25535)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29710)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22508)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25705)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23266)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25728)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23717)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40589)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23344)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22433)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22080)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23499)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16953)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23277)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24294)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41079)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18972)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20469)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27720)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38101)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34058)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36782)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 23984)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29170)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60126)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27594)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68708)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24508)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24472)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22672)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26345)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26516)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20796)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20042)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27540)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46398)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53567)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23588)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21080)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25551)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29240)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant