Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thay lời kết

16 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 15970)
Thay lời kết


A DI ÐÀ KINH HỢP GIẢI

Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa hợp dịch

THAY LỜI KẾT

Xin mượn lời kết luận của pháp sư Văn Châu để kết thúc cuốn Hợp Giải này:

“Bút giả trộm nghĩ: Chẳng nghe, chẳng biết đến kinh này, nên chẳng tín, chẳng hạnh, chẳng nguyện thì tuy là đáng thương, nhưng vẫn còn có thể chấp nhận được. Chứ ai đã được nghe, xem đọc kinh này, đã biết pháp môn Niệm Phật thù thắng như thế ấy, nhưng nghe mà chẳng tin, hoặc tin nhưng chẳng nguyện, chẳng hạnh, thì chẳng những chỉ phụ bạc đấng Thích Tôn là đấng đã thực hiện được việc khó này, đã nói pháp khó tin này; mà còn là phụ bạc chính mình, lãng phí kiếp sống này vậy!

Phải biết rằng: Chúng ta sống gởi trong cõi Sa Bà, ngoài thì bị việc người vùi dập, khiến cả thân lẫn tâm đều bị tổn thương; trong thì phiền não gây khốn đốn, bệnh tật vây hãm, khổ thật chẳng thể nói nổi. Nay được nghe diệu pháp này, khác nào bệnh nặng liệt giường, chợt được thần lực, kẹt ở đất khách lâu ngày, chợt gặp thuyền bè...

Cổ nhân nói:

Cấp cấp mang mang khổ khổ cầu,

Hàn hàn noãn noãn độ xuân thu,

Triêu triêu mộ mộ doanh gia kế,

Muội muội hôn hôn bạch liễu đầu,

Thị thị phi phi hà nhật liễu,

Phiền phiền não não kỷ thời hưu,

Minh minh bạch bạch nhất điều lộ,

Vạn vạn thiên thiên bất khẳng tu

(Tạm dịch:

Gấp gáp bộn bề khổ nhọc cầu,

Lạnh nồng đã trải mấy xuân thâu,

Sáng trưa chiều tối lo gia sự,

Mờ mịt, u mê bạc trắng đầu,

Ðúng đúng, sai sai phân biện mãi,

Phiền phiền não não dễ ngừng đâu?

Một con đường chánh luôn ngời rạng,

Ngàn vạn muôn phần chẳng chịu tu!)

Ðáng tiếc biết bao!

Phải biết rằng:

Nhất cú Di Ðà tối phương tiện,

Bất phí công phu, bất phí tiền,

Ðản giao nhất niệm vô gián đoạn,

Hà sầu bất đáo pháp vương tiền.

(Một câu Di Ðà phương tiện mầu,

Nào tốn công phu, chẳng tốn xu,

Cốt sao nhất niệm đừng gián đoạn,

Sanh trước pháp vương há phải sầu?)

Hoặc có người bảo: ‘Ta nay đang lúc tráng niên, phải dốc tâm lo sự nghiệp, làm sao niệm Phật được?’ Nào có biết rằng: Sự có thành, hoại, hưng, suy, nhưng thời gian đã qua chẳng hề trở lại, tuổi trẻ khôn tìm lại, một mai vô thường xảy đến, có hối cũng muộn rồi! Cổ nhân nói:

Mạc đạo lão niên phương học đạo,

Cô phần đa thiểu thiếu niên nhân.

(Chớ bảo đến già toan học đạo,

Mồ hoang bao kẻ tuổi đầu xanh)

...Liên Trì Ðại Sư nói rất hay:

‘Pháp môn Niệm Phật bất luận nam, nữ, Tăng, tục, quý, hèn, hiền, ngu, không có một ai là chẳng niệm Phật được! Nếu là người phú quý, của cải dư dả thì đúng là phải niệm Phật. Nếu là kẻ bần cùng, nhà hẹp, của ít thì càng phải nên niệm Phật. Nếu là người có con cháu, việc cúng bái tổ tiên đã có chỗ nhờ cậy thì rất nên niệm Phật. Nếu là người không con, trơ trọi một thân tự do thì càng phải nên niệm Phật.

Nếu ai có con hiếu thuận, yên hưởng con cái phụng dưỡng thì rất nên niệm Phật. Nếu ai có con ngỗ nghịch, chẳng sanh lòng yêu thương thì thật đúng là phải niệm Phật. Nếu ai vô bịnh, thân thể khỏe mạnh thì càng phải nên niệm Phật. Nếu ai có bịnh, rất gần cơn vô thường thì càng phải nên niệm Phật. Nếu ai già cả, tháng ngày chẳng còn mấy thì càng phải nên niệm Phật. Nếu ai tuổi trẻ tinh thần sáng suốt thì thật là rất tốt để niệm Phật. Nếu ai an nhàn, tâm không bị sự gì khuấy động thì thật đúng là nên niệm Phật. Nếu là người bận rộn, được đôi lúc nhàn giữa khi bận rộn thì càng phải nên niệm Phật. Nếu là người xuất gia, tiêu dao ngoài cõi đời thì càng phải nên niệm Phật. Nếu là kẻ tại gia biết cõi đời đúng là nhà lửa thì càng phải nên niệm Phật.

Nếu ai thông minh, thông hiểu Tịnh Ðộ thì rất nên niệm Phật. Nếu là kẻ ngu si, thô lỗ, không làm gì khác nổi thì thật đúng là nên niệm Phật. Nếu ai trì luật mà Luật lại do Phật chế ra; vì thế, rất nên niệm Phật. Nếu ai đọc kinh thì kinh là do Phật dạy, càng phải nên niệm Phật. Nếu ai tham thiền thì do Thiền là tâm Phật nên càng phải nên niệm Phật. Nếu ai ngộ đạo thì ngộ cần phải được Phật chứng; cho nên càng phải niệm Phật.

Khuyên khắp mọi người hãy cấp bách niệm Phật. Chín phẩm vãng sanh, hoa nở thấy Phật, gặp Phật nghe Pháp, rốt ráo thành Phật mới biết rằng tâm vốn dĩ là Phật’.

Ðọc lời này rồi thì còn có thể vin vào đâu để khỏi niệm Phật được chăng? Ấn Quang Ðại Sư nói: “Vô thường nhanh chóng, đường luân hồi hiểm nguy, già giặn, chắc thật niệm Phật, đừng thay đổi đề mục”. Nguyện những ai nghe đến, đọc đến những lời này hãy gắng lên!”

 

A DI ÐÀ KINH HỢP GIẢI HẾT

Phật lịch 2547, ngày 30 tháng 09 năm 2003

 

(1) Tam đồ, bát nạn: Tam đồ hay còn gọi là Tam Ác Ðạo: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Bát nạn: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, Trường Thọ Thiên (trong cõi trời này tâm tưởng không vận hành, không suy nghĩ, hay biết, tham đắm trong Vô Tưởng Ðịnh), sanh trong Bắc Câu Lô Châu (Uất Ðan Việt, quá sung sướng nên tham đắm hưởng lạc, không nghĩ gì đến đạo pháp), điếc - đui - câm - ngọng, thế trí biện thông (thông minh lanh lợi, biện bác nhạy bén, nhưng chỉ tin kinh sách ngoại đạo, không tin nhân quả), sanh trước Phật hay sau Phật. Tám nạn này trở ngại cơ duyên gặp Phật, nghe pháp tu hành nên gọi là Nạn.

(2) Ngũ trụ: nói cho đủ là Ngũ Trụ Ðịa Hoặc. Tức là:

- Kiến nhất thiết xứ trụ địa: kiến hoặc trong ba cõi như thân kiến, biên kiến....

- Dục ái trụ địa: phiền não trong cõi Dục, tức là phiền não do đắm trước Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp.

- Sắc ái trụ địa: phiền não ở cõi Sắc do đắm trước sắc thân của chính mình.

- Hữu ái trụ địa: phiền não ở cõi Vô Sắc, tức là phiền não chấp trước do yêu mến tự thân.

- Vô minh trụ địa: tất cả vô minh trong ba cõi

(3) Thỉ Giác trí: Phật tánh ai ai cũng sẵn có gọi là Bổn Giác Trí. Do công năng tu tập, phiền não đoạn diệt thì Phật tánh mới hiển hiện. Phật tánh được hiển hiện đó gọi là Thỉ Giác Trí.

(4) Bách giới thiên như: Theo tông Thiên Thai, có mười giới: từ ngạ quỉ, súc sanh, địa ngục.. cho đến chư Phật. Trong mỗi giới lại có đủ mười giới, nên 10 x 10 = 100 giới. Trong mỗi giới lại có mười môn như thị; như thị tướng, như thị thể, như thị tánh.. (xem kinh Pháp Hoa) nên thành ra một ngàn như. Tông Thiên Thai dùng chữ “bách giới thiên như” để chỉ tất cả các pháp.

 

 (*) Nếu ước theo Hiền kiếp, chu kỳ của cõi Sa Bà tổng cộng 80 tiểu kiếp, gồm bốn giai đoạn, mỗi giai đoạn dài 20 tiểu kiếp, phân ra như sau:

- Giai đoạn Thành: cõi đại địa, trời Lục Dục, Sơ Thiền v.v... thành lập.

- Giai đoạn Trụ: Ðại địa đã thành, chúng sanh an trụ. Trong tám tiểu kiếp đầu, không có Ðức Phật nào xuất thế. Trong kiếp thứ chín, khi thọ mạng giảm đến sáu vạn năm, đức Câu Lưu Tôn Phật xuất thế. Khi tuổi thọ giảm còn bốn vạn năm, Ðức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni xuất thế. Khi thọ mạng giảm còn hai vạn năm, Ca Diếp Phật xuất thế. Khi thọ mạng vừa đúng trăm năm, Phật Thích Ca xuất thế.

Trong đại kiếp thứ mười, khi tuổi thọ chỉ còn tám vạn năm, Ðức Phật Di Lặc xuất thế. Trong bốn tiểu kiếp tiếp đó, không có Phật xuất thế. Trong kiếp thứ mười lăm, có chín trăm chín mươi bốn Ðức Phật nối nhau xuất thế. Trong bốn kiếp tiếp đó, không có Phật xuất thế. Trong kiếp thứ 20, sau khi Ðức Phật tối hậu là Phật Lâu Chí nhập Niết Bàn, thế giới Sa Bà bước vào Hoại kiếp.

- Giai đoạn Hoại: Hỏa tai cháy tan đến tận trời Sơ Thiền.

- Giai đoạn Không: Từ trời Sơ Thiền trở xuống, không còn gì nữa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19873)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28992)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20701)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19458)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30534)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36459)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33251)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35585)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21005)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21936)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25279)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25815)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31290)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18580)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25157)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23791)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28961)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20889)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31464)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25561)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29733)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22538)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25740)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23305)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25760)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23753)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40622)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23360)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22475)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22106)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23519)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16982)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23299)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24333)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41130)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19012)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20508)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27742)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38136)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34090)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36815)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24029)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29219)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60181)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27633)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68765)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24552)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24514)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22738)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26388)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26564)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20834)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20083)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27586)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46473)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53599)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23625)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21112)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25610)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29293)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant