Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Tâm kinh và biểu hiện tâm lý của kinh nghiệm thiền

27 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 16497)
04. Tâm kinh và biểu hiện tâm lý của kinh nghiệm thiền

THIỀN VÀ BÁT NHà

Daisetz Teitaro Suzuki

Bản dịch Việt: Tuệ Sỹ

---o0o---

THIỀN LUẬN NĂM

Ý NGHĨA CỦA TÂM KINH BÁT-NHÃ TRONG PHẬT GIÁO THIỀN TÔNG

IV. TÂM KINH VÀ BIỂU HIỆN TÂM LÝ CỦA KINH NGHIỆM THIỀN

Theo ý tôi, có thể giải quyết tất cả những khúc mắc để thấu triệt Tâm kinh bằng cách sau đây.

Khi giáo nghĩa Bát-nhã hoàn toàn đồng nhất với kinh nghiệm Phật giáo, Tâm kinh được viết ra để nói lên những điểm cốt yếu của Bát-nhã trong một hình thức rất giản ước, đồng thời để chỉ định tiến trình tâm lý của hành giả tu tập Bát-nhã ba-la-mật uyên áo này. Khi kinh bắt sang trào lưu phát triển khác, nó mở rộng thành một nền văn học rất phồn tạp, rườm rà, đồ sộ, mà tại Trung hoa được biết dưới danh hiệu Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa (mahāprajñāpāramitā-sūtra) 600 quyển; trong số đó, 400 quyển đầu đại để tương đương với bản Sanskrit Śatasāhasrikā prajñāpāramitā, Bát-nhã bách thiên tụng, bản kinh gồm 100.000 bài tụng.[75] Bản kinh nào sớm nhất, bản rút ngắn hay bản mở rộng , chúng ta chưa thể biết được. Nhưng, bản rút ngắn không có nghĩa chỉ là cô đọng; đồng thời với lúc cô đọng, nó chuyển hướng bản kinh thành một tài liệu tâm lý học về kinh nghiệm Bát-nhã. Đây là sự thay đổi đáng chú ý, vì rằng khi thêm vào câu thần chú “Gate!” là đã thay đổi toàn diện sắc thái của việc giản ước. Nếu không có câu thần chú, giản ước vẫn là một sự kiện đơn giản, không có nghĩa gì hết, và tầm quan trọng nặng ký của nền văn học đó đến đây biến mất hẳn.

Trong lúc tôi chưa thể tìm thấy một cách chính xácTâm kinh trở thành một khóa bản của Thiền tại Trung hoa vào lúc nào, các Thiền sư hẳn đã khá sáng suốt, trong lịch sử của Thiền, thấy kinh còn có yếu tố khác chứ không chỉ là một cố gắng cô đọng. Cho đến về sau, kinh Kim cương (vajracchedikā) đã đáp ứng cho chủ đích đó, và ngay cả trước thời Huệ Năng cũng vậy. Khi Huyền Trang kể những chuyện linh ứng của mình do đọc Tâm kinh, các Thiền sư lưu ý ngay, và đồng thời còn thấy bên trong có yếu tố khác nữa. Cái “yếu tố khác” đó có thể không lọt vào tầm mắt của các luận sư Duy thức học (vijñaptimātra), nhưng không trốn khỏi các Thiền sư, họ xem trọng kinh nghiệm hơn triết lý, và rất mẫn cảm với giá trị tâm lý của tất cả nền văn học Phật giáo. Họ hiểu ý nghĩa của thần chú khác hẳn các tín đồ Chân ngôn tông.

Một sự kiện đáng lưu ýthần chú “Gate!” cũng thấy có ở cuối bộ Đại Bát-nhã bản Hán dịch của Huyền Trang. Hình như nó được thêm vào đời Nguyên, vì ấn bản đời Nguyên mới có nó. Phải chăng ý tưởng phụ thêm thần chú nên coi là xuất phát từ Tâm kinh khi nó bắt đầu lưu hành rộng rãi trong giới Phật tử? Kinh Bát thiên tụng (aṣṭasāharikā) nói rằng Bát-nhã ba-la-mật là một minh chú (vidyā) lớn, không lường được, không dò được, không sánh được, và tối thượng; nếu vậy, nên coi “Gate!” như là lối tán dương của Tâm kinh bằng những từ ngữ chói sáng của Thần chú.

Trở lại chủ đề chính, việc tu tập Bát-nhã uyên áo cũng là việc thực tập công án, mà tôi đã đề cập trong Thiền luận bộ trung. Quán Tự Tại (Avalokiteśvara, hoặc Quán Thế Âm) là người học Thiền, và đức Phật trong Tâm kinh cho biết ngài Quán Tự Tại đã học Bát-nhã như thế nào. Vì Bát-nhã là công án được đề ra cho Ngài giải quyết, làm phương tiện chứng quả giác ngộ tối thượng. Quá trình chứng ngộ của Ngài xuôi theo dòng phủ định. Phủ định bất cứ thứ gì có thể đem trí óc mà hiểu như là một đối tượng của tư tưởng. Thiền tông cũng làm như thế. Nó bắt đầu bằng trí óc. Phải trừ diệt vô minh cố hữu trong tâm từ vô thủy quá khứ. Đó là bước thứ nhất hướng tới giác ngộ. Vô minh tức không thấy sự thực (dharma, pháp) như thế là như thế, yathābhūta (như thật). Vậy rồi, Tâm kinh đề ra một tràng phủ định, chối bỏ luôn cả nhận thức, hay trí. Bởi vì, chừng nào thức còn có chỗ bám, đó thực là một trở ngại trên đường đi về giác ngộ tối thượng. Tự chủtự tại có nghĩa là có đường đi hoàn toàn dẹp sạch tất cả các chướng ngại vật chúng có thể chận ngang dòng suối tự do và tự tác chủ của Bát-nhã. Phủ định là dọn sạch, là thanh lọc như thế. Trong thực tập công án, dọn sạch như thế cũng là phương sách tiên quyết.

Chúng ta biết rằng, phủ định chỉ là phương tiện nhờ đó để thành tựu cái khác. Trong Bát-nhã ba-la-mật, nó cũng là cái dẫn chúng ta đi tới mục đích của pháp môn này. Thiền, ngay từ khởi thủy, đề ra cho chúng ta một công án coi thường sự giải thích của trí óc, và do đó chỉ con đường phủ định cho chúng ta đi mà không cần nói một cách công khai. Tâm kinh, trực thuộc văn học Bát-nhã, diễn theo cái đà diễn tiến chung này, và chứa đầy tiếng không! Nhưng chúng ta cắm dùi vào đâu sau khi vứt bỏ hết mọi kho tàng trí năng, khái niệm? Là cái Không trơ trọi, là khoảng trời trống trơn, là cái trống rỗng hoàn toàn, đó là ý nghĩa của Śūnyatā ư? Nếu đúng vậy, chúng ta vẫn ở nguyên trong cảnh vực của những khái niệm. “Cái không chi” (ngoan không) vẫn còn là một trong những đối tượng tư tưởng của chúng ta. Phải vứt bỏ cái đó, vì đó là “điên đảo và mộng tưởng.”

Trong Phật giáo Chân tông, bỏ “tự lực“ cốt để vãng sinh về quốc độ của Phật A-di-đà (Amitābha). Phủ định cũng là khẳng định ngay đó. Chân tông tránh dùng trí năng. Chủ trương phủ định của nó không gây kinh hãithất vọng cho bằng Bát-nhã ba-la-mật. Tuy nhiên, ngay đây, một tâm trạng gọi là “không bố úy,” “không quái ngại” được trỗi lên làm mục tiêu. Mục tiêu đó là gì? Giác ngộ tối thượng này là gì? Nó ở đâu? Khi nào đạt đến?

Đạt đến, lúc ngài Quán Tự Tại xướng tụng, “Gate, gate, pāragate, pārasaṅgate!” Vì đó là sự phóng xuất vọt ra từ nội tâm của Ngài khi Ngài sang ngang dòng phủ định. Ngài là hành giả của Bát-nhã ba-la-mật-đa, không thể vĩnh viễn quanh quẩn trong một vòng tròn phủ định. Một khi Ngài đi đến đích, kiệt sứcvô vọng, chẳng còn ước mong nào trước mặt, và Ngài biết những gì đã bị bỏ lại đằng sau. Nhưng vẫn có cái thúc đẩy bước tới. Trí năng và xúc cảm hoàn toàn cùng tận, Ngài thực hiện bước nhảy tối hậu. Bứt lìa đoạn dây cuối cùng trói buộc Ngài vào thế giới của đối đãi và “tự lực.” Ngài thấy mình đứng trên bờ bên kia. Bị áp đảo bởi các tình cảm của mình, Ngài chỉ có thể đọc lên “Gate!”. Rồi thì, Gate trở thành câu thần chú của Ngài, Gate trở thành thần chú của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Với sự phóng xuất đó, mọi vật bừng sáng, và Quán Tự Tại đã tu tập Bát-nhã đến chỗ cuối cùng.

Tôi kết luận rằng, đây là ý nghĩa của Tâm kinh. Do giải thích bản kinh như thế, chúng ta có thể hiểu tại sao Gate là kết luận, và tại sao kết luận này diễn tả nội dung của Tâm kinh một cách triệt để. Để riêng thần chú ra, nó chẳng có nghĩa gì hết, và khó mà hiểu tương quan sinh tử của nó với kinh Bát-nhã ba-la-mật. Đừng có bước tới Tâm kinh bằng con đường tắt của trí năng, dù thoạt trông nó như chỉ ra lối đi đó. Phải tiến tới theo đường dây của kinh nghiệm tôn giáo, tức là, bằng đường dây mà chúng ta giữ chặt trong lối tham cứu công án. Ý nghĩa của thần chú như thế vén mở những bí mật của nó, và kết quả Tâm kinh trở thành một tài liệu hoàn toàn dễ hiểugiá trị tôn giáo rất lớn.

Nếu Tâm kinh là một sản phẩm của thiên tài Trung hoa, câu thần chúthể không mang hình thái Gate! Như chúng ta đã thấy qua nhiều trường hợp khác nhau rồi, thần chú của các Thiền sư đã khoác những màu sắc khác hẳn. Nhưng, trên phương diện tâm lý mà nói, quá trình tâm linh được chứng nghiệm bởi người Trung hoa và Ấn độ rõ ràng cũng thếhiển nhiên phải thế. Khi một người Trung hoa được hỏi Phật là ai, y trả lời: “Đó là một cái thùng đầy nước bị thủng đáy.” Phê phán theo tiêu chuẩn thường của luận lý, nói thế nghe như là một Đà-la-ni. So sánh Phật với thùng nước coi có vẻ phạm thượng, nhưng trong con mắt của Thiền thì phải là cái thùng thủng đáy, nước tuôn ra ngoài hết và không có trăng rọi bóng vào trong đó. Rồi Phật mới hiện thân với 32 tướng tốt. Tâm kinh không cụ thể mức này, nhưng nó mô tả kinh nghiệm Thiền khá sáng sủa.

Trong “Gate!” những phủ định của Tâm kinh đã vươn tới khẳng định lớn, mà trong tất cả các kinh điển Đại thừa gọi là Chân như (tathatā). Những phủ định ấy cốt dẫn các hành giả của Bát-nhã đi tới kết cuộc này. Lối tụng đọc của Huyền Trang, đọc trong hình thức chú thuật, bây giờ trở nên chứa đựng những giá trị tôn giáo có tầm vóc lớn. Do sức mạnh của câu thần chú kết thúc, giác ngộ tối thượng, mà các học giả quen hiểu bằng trí năng, trở thành một biến cố vĩ đại của kinh nghiệm tâm linh.

Địa vị của Tâm kinh trong giáo nghĩa của Thiền được định đúng mức ở đây.

Vẫn còn phải cắt nghĩa trường hợp nào thần chú đặc biệt đó được đọc lên. Điều này đòi hỏi dài dòng hơn, mà ở đây thì không đủ; tôi chỉ có thể nói vắn tắt là, ý niệm “bờ bên kia“ có chất Ấn riêng biệt, và nó xuất hiện sớm trong văn học tôn giáo của Ấn độ. Lấy thí dụ từ văn học Phật giáo khởi thủy, trong kinh Pháp cú chúng ta có câu này:

Appakā te manussesu ye janā pāragāmino,

Athāyam itarā pajā tīram evānudhāvati.[76]

Có thể nói, Tathāgata là Pārāgata, Như Lai là Người Qua bên kia. Nhưng, ý niệm tathā đã trở nên có ưu thế trong triết học Phật giáo hơn pāram, và Pārāgata được thay thế bằng Tathāgata. Dấu vết ý niệm pāram còn lưu lại trong chữ pāramitā, chỉ cho những đức tính dẫn hành giả sang bờ bên kia của giác ngộ. Pāramitā thường được dịch là “đáo bỉ ngạn,” sang đến bờ bên kia, mà thực tế chỉ cùng sự kiện như pārāgata; hai thành ngữ khác nhau là về hướng đi. Tùy theo chỗ đứng, nhìn từ đích điểm này thì nó là “đi;” nhìn từ đích điểm kia, thì là “đến.” Trong Bát-nhã ba-la-mật-đa, dòng tiến của Quán Tự Tạidiễn tả như đã “cập bờ bên kia“ (pārasaṁgate), thì rất là chính xác.

Động Sơn Lương Giới[77] thuở còn là chú tiểu, một Luật sư dạy học Tâm kinh, và Sư cố cắt nghĩa câu này: “Không mắt, không mũi…” Nhưng Lương Giới đưa mắt nhìn chăm chú Sư, rồi sờ vào thân thể mình, và sau hết nói: “Thầy có hai mắt, hai tai, và các căn khác, và con cũng có như thế. Tại sao Phật dạy là không có?” Luật sư nghe hỏi, ngạc nhiên bảo: “Ta làm thầy con không nổi. Con phải được một Thiền tăng độ cho, vì sau này sẽ là một đại sư của Đại thừa.”

Khi một tâm hồn trẻ trung hay thắc mắc như Lương Giới mà vấp phải phủ định luận của Bát-nhã, đó là dấu hiệu tốt. Nếu cứ tiếp tục thắc mắc, nhất định sẽ có ngày bùng vỡ. Nhưng sau khi bùng vỡ nên bước trở lui lại con đường phủ định để thử xem trong con đường dẫn vào chứng nghiệm có thứ gì. Cái gì mà khởi thủy không nắm bắt được, bây giờ sẽ được thấy chất chứa đầy ý nghĩa. Giáo nghĩa tính Không chẳng còn là phủ định luận thuần túy nữa. Rồi tôi sẽ giảng giải trong các trang sau; đó là cách giản dị nhìn các pháp một cách như thật (yathābhūta), nhìn chúng dưới sắc thái Tathatā, Như tính, của chúng. Nó không chối bỏ thế giới vạn thù; núi non vẫn đó, hoa anh đào đang nở rộ, ánh trăng tỏa rạng trong đêm thu; nhưng đồng thời chúng không chỉ y nguyên là những cái đặc thù, chúng gợi cho ta một ý nghĩa sâu thẳm, chúng được thấu hiểu trong cái không là chúng. Tâm kinh nằm trên nền tảng này.

Nhân lúc bước qua dòng nước, thấy bóng mình trong đó, Động Sơn làm một bài thơ, có thể cho ta điểm tựa dò vào kinh nghiệm nội tại của sư về Bát-nhã:

Thiết kị tùng tha mịch   切忌從他覓

Thiều thiều dữ ngã sơ    迢迢與我疏

Ngã kim độc tự vãng    我今獨自往 

Xứ xứ đắc phùng cừ     處處得逢渠

Cừ kim chánh thị ngã    渠今正是我

Ngã kim bất thị cừ     我今不是渠

Ưng tu chẩm ma hội    應須恁麼會

Phương đắc khế như như.  方得契如如

 

Đừng nhờ ai tìm kiếm [Chân lý][78]

Lần hồi lơ với ta

Giờ một mình ta bước

Đâu đâu cũng gặp mi

Nay mi chính là ta

Ta không phải là mi

Nên hiểu được như thế

Mới gặp trúng Như như.

 


[62] Hán: não hoại tướng 惱壞相. Cf. Samyutta iii. 86: ruppatīti kho bhikkhave tasmā rūpaṁ ti vuccati. kena ruppati, sītena pi ruppati uṇhena pi ruppati jighacchāya pi ruppati pipāsāya pi ruppati daṁsa-makasa-vātā-tāpa-siriṁsapa-samphassena pi ruppati. “Nó bị hủy hoại, này các tỳ kheo, vì vậy nó được gọi là sắc. Bị hủy hoại bởi cái gì? Nó bị hủy hoại bởi lạnh, bởi nóng, bởi đói, khát, bởi xúc chạm với muỗi mòng, gió, nắng…” Sắc, Skt. rūpa, hiểu do gốc động từ Rup (rupyate): hủy hoại hay bức hại, não hoại. Cf. Câu xá 1 (T29n1558, tr. 3b23): “Gọi là sắc, vì nó bị biến hoại 變壞… Cái gì làm cho biến hoại? Tức là, tay xúc chạm đến nó liền bị biến hoại.”

[63] Câu-xá, ibid., thọ, lãnh nạp tùy xúc 受領納隨觸; Skt. k. i 14c: vedanānubhavaḥ.

[64] Ibid., tưởng thủ tượng vi thể 想取像為體; Skt. ki. 14c-d: saṁjñā nimittodgrahaṇātmikā.

[65] Ibid., hành danh tạo tác行名造作 , hành là cái tạo tác.

[66] Ibid., thức vị các liễu biệt 識謂各了別.

[67] Xem cht. 2 tr, 49 trên.

[68] Bát nhã bách thiên tụng (Thập vạn tụng). Tương đương Hán dịch, Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh, quyển 1 – 400, Huyền Trang (No 220). TS

[69] Bát-nhã nhị vạn ngũ thiên tụng. Hán dịch tương đương, 1. Phóng quang Bát-nhã kinh, 20 quyển, Vô-la-xoa (Taishō No 221); 2. Quang tán kinh, 10 quyển, Thi Hộ (Taishō No 222); 3. Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh, 27 quyển, Cưu-ma-la-thập (Taishō No 223); 4. Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh, hội thứ 2 (quyển 401 – 479), Huyền Trang (No 220.2). TS

[70] Bát-nhã bát thiên tụng. Hán dịch tương đương, 1. Đạo hành Bát-nhã kinh, 10 quyển, Chi-lâu-ca-sấm (No 224); 2. Đại minh độ kinh, 6 quyển, Chi Khiêm (No 225); 3. Ma-ha Bát-nhã sao kinh, 5 quyển, Đàm-ma-đề & Trúc Phật Niệm (No 226); 4. Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh, 10 quyển, Cưu-ma-la-thập (No 227); 5. Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh, hội thứ 4/5 (quyển 538 – 555, 556 - 565), Huyền Trang (No 220.4/5); Cf. Phật thuyết Phật mẫu xuất sinh tam pháp tạng Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh, 25 quyển, Thi Hộ (No 228).

[71] Bát-nhã thất bách tụng. Hán dịch tương đương, Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh, hội VII, “Mạn-thù-thất-lị phần” (quyển 574 – 574), Huyền Trang, Taishō 8, No 220.7. Biệt dịch, Văn-thù-sư-lị sở thuyết Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh, 2 quyển, Mạn-đà-la-tiên, No 232; Văn-thù-sư-lị sở thuyết Bát-nhã ba-la-mật kinh, 1 quyển, Tăng-già-bà-la, No 233. TS

[72] Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh, 600 quyển, Huyền Trang (No 220). TS

[73] Giáo nghĩa Bát nhã được viết riêng nơi Luận VI, dưới đề mục “Triết học và tôn giáo trong kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa.”

[74] Theo bài Tựa của Từ Ân cho Tâm kinh. Taishō, No. 256飜 對字音般若波羅蜜多心經 (并序 [燉煌出 S. 700] ).

[75] Cần giải thích. Ngày nay đa số học giả đồng ý rằng bản kinh Bát nhã sớm nhất gần như Bát thiên tụng (aṣṭasāhasrikā) trong tiếng Phạn và Đạo hành kinh (No 224) hay Tiểu phẩm Bát-nhã của Cưu-ma-la-thập (No 227) trong Hán văn. Từ bản coi như nguyên thủy này, văn học được phát triển thành Bách thiên tụng (Śatasāhasrikā, Đại Bát nhã của Huyền Trang (No 220) v.v… Trong lúc lối mở rộng đang diễn trong một mục đích khác, lối rút ngắn cũng diễn theo hướng khác nữa. Khó xác định niên sử cho các kinh điển Phật giáo, cũng như hầu hết các tác phẩm khác của Ấn độ. Nhưng, như tôi đã nói ở trước, câu chú Gate được thêm vào hình như cho biết Tâm kinh thuộc sau này mặc dù chúng ta không biết chắc lúc nào thần chú ấy cũng được gắn vào bộ Đại Bát nhã của Hán văn.

[76] Dhp. 85: Một số ít người sang đến bờ bên kia; số đông còn lại lang thang bờ bên này.

[77] 洞山良价 807-769 A.D. Truyền đăng lục 15 (T51n2076, tr. 321b20).

[78] Ibid., T51n2076, tr. 321c21. Rõ ràng bài thơ nói tới một người lội qua khe và cái bóng của mình. Tác giả dịch Anh ngữ rồi chua thêm chữ “chân lý,” mặc dù đã cẩn thận để trong ngoặc vuông. Ở đây cứ y theo tiếng Anh mà dịch. TS.

 

---o0o---

Tựa tái bản


Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận vềộđược xuất bản lần đầu do An tiêm, năm 1972. Sởĩản toàn bộ, vì người dịch thấy cần phải đọc lại bản dịch trước đó, đểửa chữa và bổững sai lầmthiếu sót nhất định phải có; mà công việc này chưa gặp được thuận duyên đểực hiện. Vì vậy, chúng tôi sẽửa chữa từng phần, từng thiên luận, và sẽản dần. Thi Hoa nghiêm và Bát-nhã. Toàn b d không tái b s túc nh th s tái b

Nhân dịp đọc lại và sửa chữa, chúng tôi cũng thêm vào khá nhiều văn bản, tưệu liên quan đến Tâm kinh Bát-nhã. Các văn bản tưệu này giúp các độc giảơởđểựưệm những ý nghĩa tiềm ẩn của Tâm kinh Bát-nhã mà các bản luận giải không thểếđểận thức được. Các tưệu được cung cấp trong đây cũng chỉởừng mức có tính cách gợi ý. Vì nền văn học Bát-nhã, riêng trong Hán tạng, gồm các bản dịch và chú giải, quảật vô cùng đồộ, mà trong điều kiện hiện tại của trình độứu Phật học Việt nam thì công trình phiên dịch khó có thểực hiện cho đầy đủương đối chính xác được. Do đó, người dịch mong độc giảếu cảm thấy có đôi chút hứng thú với các tưệu được cung cấp ởđây, thì cũng chỉứng thú trong chừng mực vừa phải với nhận thức văn tự, ngoài ra thì tựưếu, đểượt qua giới hạn ngôn ngữ, đạt được cho mình những điều ý tại ngôn ngoại. li li có thêm c s t mình t duy và chiêm nghi thay th nh li ch th s nghiên c th và t n li nên h mình t duy quán chi v

 Phật lịch 2547

Quảng Hương Già-lam

Tuệ S

cẩn chí

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22318)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16034)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15046)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18975)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14458)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18643)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14440)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13612)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13563)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11837)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13281)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13681)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13952)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13264)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15039)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16172)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11100)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16471)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11932)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17613)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12888)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13728)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12870)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14869)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16404)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13144)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12110)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12785)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12933)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12800)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14193)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14144)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16508)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12400)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14406)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11341)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11047)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13206)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13902)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13176)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13018)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13519)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12748)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10246)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13982)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10247)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13722)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16280)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11988)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12991)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11669)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12696)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10813)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11018)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10958)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11911)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12786)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11079)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12636)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11346)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant