THIỀN VÀ BÁT NHÃ
Daisetz Teitaro Suzuki
---o0o---
THIỀN LUẬN SÁU
TRIẾT HỌC VÀ TÔN GIÁO TRONG BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA
I. ĐẠI CƯƠNG
Bát-nhã ba-la-mật-đa[80] là một trong những kinh điển tối cổ của Phật giáo được dịch sang Hán văn. Bản kinh Bát-nhã đầu tiên, được gọi là Đạo hành, [81] xuất hiện năm 172. Truyền thuyết cho rằng kinh Tứ thập nhị chương [82] được phiên dịch do sứ đoàn đầu tiên người Ấn đến Trung hoa năm 69, nhưng không có gì bảo đảm cho chứng cứ lịch sử của nó. An Thế Cao, [83] từ nước An tức (Parthia) đến Trung hoa vào năm 148, trải qua 22 năm thực hiện công trình phiên chuyển các kinh Phật sang Hán văn, nhưng tất cả thuộc kinh Tiểu thừa. Trong trường hợp đó, kinh Đạo hành Bát-nhã bản Hán dịch của Chi lâu-ca-Sấm (Lokarakṣa) người Nhục-chi (nước này sau trở thành vương quốc Kuṣaṇa: Quý-sương), đáng cho là thực sự bản kinh Đại thừa đầu tiên trong số tất cả các kinh Phật được truyền vào Trung hoa từ trước. Cũng nên ghi nhận một điều kỳ diệu, theo đó, một nền giáo thuyết của đạo Phật tuyên bố rằng tất cả đều “không” và “không tự tính”, lại là công trình thực sự quan trọng được truyền bá giữa một dân tộc nặng đầu óc thực dụng, theo chủ nghĩa công lợi. Hiển nhiên, các môn đệ của “tính Không” đã không nghĩ loại hoạt động truyền giáo này là một sự nghiệp “trống không”.
Trong thế kỷ thứ III, hai bản kinh thuộc Bát-nhã được dịch sang Hán văn, và thế kỷ IV vẫn còn xuất hiện những bản khác. Các bản của Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva) được hoàn thành khoảng đầu thế kỷ thứ V. Cho đến hậu bán thế kỷ thứ VI, Huyền Trang hoàn tất bản dịch đồ sộ của bộ Đại Bát-nhã gồm 600 quyển. Đó là một tập đại thành bách khoa gồm hầu hết những kinh điển thuộc bộ Bát-nhã của Đại thừa.
Trong Phạn văn, một tòng thư gồm 125.000 bài tụng (śloka), tức những đoạn chỉnh cú có 32 âm tiết. Bốn bản ngắn hơn gồm 100.000, 25.000, 10.000 và 8.000 śloka. Bản ngắn nhất được ấn hành năm 1888 bởi học giả người Ấn Rājendralāla Mitra; bản 100.000 bài tụng được ấn hành 1902 bởi Pratāpacandra, nhưng theo chỗ tôi biết chưa có ấn bản đầy đủ nào xuất hiện. Bản xưa nhất trong số các bản kinh Bát-nhã khác nhau hình như là bản ngắn nhất, bản 8.000 śloka, được gọi là Bát-nhã Bát thiên tụng (aṣṭasāhasrikā). Những bản dài hơn là những bản quảng diễn về sau. Bát thiên tụng tương đương với Đạo hành kinh của Chi Lâu-ca-sấm (Lokarakṣa), Tiểu phẩm Bát-nhã của Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva), và quyển thứ 538-555 trong bản Đại Bát-nhã của Huyền Trang, và Phật mẫu Bát-nhã của Thi Hộ. [84] Bởi vì, xét trên phương diện triết học và tôn giáo, tất cả những quan điểm cốt yếu của kinh Bát-nhã đều nằm trong đó, chủ đề của tôi sẽ dựa vào bản kinh này qua bản Sanskrit và các bản Hán dịch, mặc dù những trích dẫn rải rác lấy từ các bản kinh Bát-nhã khác. Độc giả nếu có hứng thú đối với văn học Bát-nhã, có thể tham khảo tập tài liệu của Bác sĩ Tokumyô Matsumoto về Die Prajnāpāramitā-Literatur. [85]
Tuy nhiên, vì bản Sanskrit Aṣṭasāhasrikā cũng như nhiều bản kinh Bát-nhã Hán văn được đề cập ở đây không dễ gì tiếp cận cho độc giả, [86] vậy xin giới thiệu kinh Kim cương (vajracchedikā), [87] qua các bản dịch tiếng Anh của Max Müller và William Gemmel, vì sự khái quát của nó. Nhưng, khuyết điểm chính nơi kinh Kim cương là quá nhấn mạnh về khía cạnh tính Không của Bát-nhã, khiến cho độc giả phổ thông có ấn tượng rằng đây là khởi điểm hay đỉnh điểm của Đại thừa. Bác sĩ Max Walleser, Heidelberg, dịch sang Đức ngữ một vài chương của Aṣṭasāhasrikā. [88]
Chủ đích của thiên luận này cốt nêu lên rằng, giáo nghĩa của các kinh Bát-nhã nhằm xác định tính thể của Bồ-tát đạo. Đó là điều mà trong hết thảy các kinh Đại thừa gọi là Bồ-tát hạnh (bodhisattvacaryā). Caryā (hành, ta quen đọc là hạnh), có nghĩa là “sinh hoạt”, vậy Bồ-tát hạnh (bodhisattvacaryā) là điểm phân biệt Bồ-tát với các loại chúng sinh khác; đặc biệt trong Đại thừa, phân biệt với Thanh văn (Śravaka) và Độc giác (Pratyekabuddha). Kinh Bát-nhã tìm thấy sinh hoạt này trong sự thấu hiểu Bát-nhã với tất cả những hàm tàng của nó, trí thức, đạo đức và tâm linh. Trong những trang tiếp theo, do đó, chúng ta sẽ trước hết thử xem Bát-nhã có nghĩa là gì, sau đó mới khai thác nội dung thực tiễn của nó. Có thế, tính thể của Bồ-tát đạo mới trở thành hiển lộ tự nhiên. Tôi tin rằng độc giả đã biết khá rõ về mối liên hệ rất sâu xa giữa Thiền tông và giáo nghĩa Bát-nhã, trên lịch sử và trên học thuật.
Vậy Bát-nhã sẽ được diễn tả từ nhiều quan điểm khác nhau, và đó cũng là cách mà các kinh Bát-nhã ba-la-mật thường nói về Bát-nhã.