Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phụ lục 3

27 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 16954)
Phụ lục 3

THIỀN VÀ BÁT NHà

Daisetz Teitaro Suzuki

Bản dịch Việt: Tuệ Sỹ

---o0o---

THIỀN LUẬN NĂM

Ý NGHĨA CỦA TÂM KINH BÁT-NHÃ TRONG PHẬT GIÁO THIỀN TÔNG

PHỤ LỤC 3

(Tuệ Sỹ)

NGUỒN THAM CHIẾU

1. 大般若波羅蜜多經卷第四百三 第二分觀照品第三之

T07n0220_p0014a07║  。。舍利子。諸色空彼非色

T07n0220_p0014a08║諸受想行識空彼非受想行識。何以故。舍

T07n0220_p0014a09║子。諸色空彼非變礙相諸受空彼非領納相

T07n0220_p0014a10║諸想空彼非取像相。諸行空彼非造作相。

T07n0220_p0014a11║識空彼非了別相。何以故。舍利子。色不

T07n0220_p0014a12║空。空不異色。色即是空。空即是色受想

T07n0220_p0014a13║識不異空。空不異受想行識。受想行識即

T07n0220_p0014a14║空空即是受想行識。舍利子。是諸法空相

T07n0220_p0014a15║不生不滅不染不淨。不增不減。非過去非

T07n0220_p0014a16║來非現在。如是空中無色無受想行識。無

T07n0220_p0014a17║處無耳鼻舌身意處。無色處無聲香味觸

T07n0220_p0014a18║處。無眼界色界眼識界無耳界聲界耳識界

T07n0220_p0014a19║無鼻界香界鼻識界。無舌界味界舌識界。

T07n0220_p0014a20║身界觸界身識界。無意界法界意識界。無

T07n0220_p0014a21║明亦無無明滅。乃至無老死愁歎苦憂惱。

T07n0220_p0014a22║無老死愁歎苦憂惱滅。無苦聖諦無集滅

T07n0220_p0014a23║聖諦。無得無現觀。無預流無預流果。無

T07n0220_p0014a24║來無一來果。無不還無不還果。無阿羅漢

T07n0220_p0014a25║阿羅漢果。無獨覺無獨覺菩提。無菩薩無

T07n0220_p0014a26║薩行。無正等覺無正等覺菩提。舍利子。

T07n0220_p0014a27║行般若波羅蜜多菩薩摩訶薩。與如是法

T07n0220_p0014a28║應故應言與般若波羅蜜多相應.

1. Đại Bát-nhã, Huyền Trang, quyển 403, phần II, phẩm 3 “Quán chiếu”

Xá-lợi Tử, các sắc là Không; chúng không phải là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức là Không; chúng không phải là thọ, tưởng, hành, thức.

Vì sao vậy?

Các sắc là Không; chúng không phải là tướng biến ngại.[79] Các thọ là Không; chúng không phải là tướng lãnh nạp. Các tưởng là Không; chúng không phải là tướng bắt nắm ấn tượng. Các hành là Không; chúng không phải là tướng tạo tác. Các thức là Không; chúng không phải là tướng liễu biệt.

Vì sao vậy?

Xá-lợi Tử, sắc không khác Không; Không không khác sắc. Sắc tức thị Không; Không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức không khác Không; Không không khác thọ, tưởng, hành, thức. Thọ, tưởng, hành, thức tức thị Không; Không tức thị thọ, tưởng, hành, thức.

Xá-lợi Tử, các pháp vốn là tướng Không; không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, không phải quá khứ, không phải vị lai, không phải hiện tại.

Trong Không như vậy không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có xứ của mắt, không có xứ của tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có xứ của sắc, không có xứ của thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có giới của mắt, giới của sắc, giới của thức con mắt; không có giới của tai, không có giới của thanh, không có giới của thức lỗ tai; không có giới của mũi, không có giới của hương, không có giới của thức mũi; không có giới của lưỡi, không có giới của vị, không có giới của thức lưỡi; không có giới của thân, không có giới của xúc, không có giới của thức thân; không có giới của ý, không có giới của pháp, không có giới của thức ý; không vô minh, không có sự diện tận của vô minh; cho đến không có già-chết-sầu-than-khổ-ưu-não, cũng không có sự diệt tận của già-chết-sầu-than-khổ-ưu-não; không có Khổ Thánh đế, không có Tập, Diệt, Đạo Thánh đế; không có đắc, không có hiện quán; không có Dự lưu, không có quả Dự lưu; không có Nhất lai, không có quả Nhất lai; không có Bất hoàn, không có quả Bất hoàn; không có A-la-hán, không có quả A-la-hán; không có Độc giác, không có Bồ đề của Độc giác; không có Bồ-tát, không có Bồ-tát hành; không có Chính đẳng giác, không có Bồ đề của Chính đẳng giác.

Xá-lợi Tử, Bồ-tát Ma-ha-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa tương ưng với pháp như vậy, cho nên nói là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.

 

2. 摩訶般若波羅蜜經 (鳩摩羅什譯) 卷第一習應品第三(丹本名為習相應品)

T08n0223_p0223a09。。。舍利弗

T08n0223_p0223a10色空中無有色。受想行識空中無有識。

T08n0223_p0223a11利弗。色空故無惱壞相。受空故無受相。

T08n0223_p0223a12空故無知相。行空故無作相。識空故無

T08n0223_p0223a13相。何以故。舍利弗。色不異空空不異色

T08n0223_p0223a14色即是空空即是色。受想行識亦如是。舍

T08n0223_p0223a15弗。是諸法空相。不生不滅。不垢不淨

T08n0223_p0223a16增不減。是空法非過去非未來非現在

T08n0223_p0223a17是故空中無色無受想行識。無眼耳鼻舌

T08n0223_p0223a18意。無色聲香味觸法。無眼界乃至無意

T08n0223_p0223a19界。亦無無明亦無無明盡。乃至亦無老

T08n0223_p0223a20亦無老死盡。無苦集滅道。亦無智亦無得

T08n0223_p0223a21亦無須陀洹無須陀洹果。無斯陀含無

T08n0223_p0223a22陀含果。無阿那含無阿那含果。無阿羅

T08n0223_p0223a23無阿羅漢果。無辟支佛無辟支佛道。

T08n0223_p0223a24佛亦無佛道。舍利弗。菩薩摩訶薩如是

T08n0223_p0223a25應。是名與般若波羅蜜相應

2. Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh

Cưu-ma-la-thập, quyển 1, phẩm 3 “Tập tương ưng”

 

Xá-lợi-phất, trong sắc vốn Không không có sắc; trong thọ, tưởng, hành, thức vốn Không không có thọ, tưởng, hành, thức.

Xá-lợi-phất, sắc là Không nên không có tướng não hoại; thọ là Không nên không có tướng lãnh thọ; tưởng là không nên không có tướng tri nhận; hành là không nên không có tướng tạo tác; thức là Không nên không có tướng giác biết.

Vì sao vậy?

Xá-lợi-phất, sắc không khác Không, Không không khác sắc; sắc tức thị Không, Không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức, cũng vậy.

Xá-lợi-phất, các pháp ấy vốn là tướng Không, không sinh, không diệt, không cấu, không tịnh, không tăng, không giảm. Pháp vốn Không ấy không phải quá khứ, không phải vị lai, không phải hiện tại. Cho nên, trong Không không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có giới con mắt, cho đến không có giới ý thức; không có vô minh, cũng không có sự tận diệt của vô minh; cho đến không có già-chết, cũng không có sự tận diệt của già-chết; không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo; không có Trí, cũng không có đắc; không có Tu-đà-hoàn, không có quả Tu-đà-hoàn; không có Tư-đà-hàm, không có quả Tư-đà-hàm; không có A-la-hán, không có quả A-la-hán; không có Bích-chi-Phật, không có Bích-chi-Phật đạo; không có Phật cũng không có Phật đạo.

Xá-lợi-phất, tu tập Bồ-tát Ma-ha-tát nên như vậy, được nói là tương ưng Bát-nhã ba-la-mật.

 

3. 大智度論釋習相應品第三 (卷三十六)

T25n1509_p0327c11【經】舍利弗。色空中無有色受想行識空

T25n1509_p0327c12無有識【論】釋曰。何以故色與空相違。

T25n1509_p0327c13空來則滅色。云何色空中有色。譬如水

T25n1509_p0327c14無火火中無水。性相違故。復次有人言

T25n1509_p0327c15非實空。行者入空三昧中見色為空。以

T25n1509_p0327c16故言色空中都無有色。受想行識亦如

T25n1509_p0327c17【經】舍利弗色空故無惱壞相受空故無受

T25n1509_p0327c18想空故無知相。行空故無作相。識空故無

T25n1509_p0327c19相【論】問曰。此義有何次第。答曰先

T25n1509_p0327c20眾空中無五眾。今是中說其因緣。五眾

T25n1509_p0327c21各自相不可得故。故言五眾空中無五

T25n1509_p0327c22【經】何以故。舍利弗非色異空非空異色

T25n1509_p0327c23即是空空即是色受想行識亦如是。【論】

T25n1509_p0327c24曰。佛重說因緣。若五眾與空異。空中應

T25n1509_p0327c25五眾。今五眾不異空。空不異五眾。五眾

T25n1509_p0327c26是空。空即是五眾。以是故空不破五眾。

T25n1509_p0327c27以者何。是中佛自說因

T25n1509_p0327c28【經】舍利弗是諸法空相不生不滅不垢不

T25n1509_p0327c29不增不減。是空法非過去非未來非現在

T25n1509_p0328a01是故空中無色無受想行識。無眼耳鼻舌

T25n1509_p0328a02意無色聲香味觸法無眼界。乃至無意識界

T25n1509_p0328a03無無明亦無無明盡。乃至無老死亦無老

T25n1509_p0328a04盡。無苦集滅道。亦無智亦無得。無須陀

T25n1509_p0328a05無須陀洹果。無斯陀含無斯陀含果。無阿

T25n1509_p0328a06含無阿那含果。無阿羅漢無阿羅漢果。無

T25n1509_p0328a07支佛無辟支佛道無佛亦無佛道。舍利弗。

T25n1509_p0328a08薩摩訶薩如是習應。是名與般若波羅蜜

T25n1509_p0328a09應。【論】問曰。人皆知空中無所有不生

T25n1509_p0328a10滅不垢不淨不增不減無一切法。佛何以

T25n1509_p0328a11說五眾等諸法各各空。答曰。有人雖

T25n1509_p0328a12習空。而想空中猶有諸法。如行慈人。

T25n1509_p0328a13無眾生而想眾生得樂。自得無量福故

T25n1509_p0328a14以是故佛說諸法性常自空。非空三昧故

T25n1509_p0328a15法空。如水冷相火令其熱。若言以空三

T25n1509_p0328a16故令法空者。是事不然。智者是無漏八智

T25n1509_p0328a17得者初得聖道須陀洹果乃至佛道。是

T25n1509_p0328a18先已廣說.

3. Đại trí độ quyển 36, phẩm 3 “Tập tương ưng”

Kinh: Xá lợi-phất, trong sắc vốn Không không có sắc; trong thọ, tưởng, hành, thức vốn Không không có thọ, tưởng, hành, thức.

Luận: Vì sao vậy? Sắc với Không trái ngược nhau. Nếu Không xuất hiện thì sắc biến mất. Vì sao trong sắc vốn Không không tồn tại sắc? Cũng như trong nước không tồn tại lửa; trong lửa không tồn tại nước. Vì tính và tướng trái ngược nhau.

Lại nữa, có người nói, sắc không phải là thực Không. Hành giả nhập tam-muội, thấy rằng sắc là Không. Do đó nói, trong sắc vốn Không hoàn toàn không tồn tại sắc. Thọ, tưởng, hành, thức, cũng vậy.

Kinh: Xá-lợi-phất, sắc là Không nên không có tướng não hoại; thọ là Không nên không có tướng lãnh thọ; tưởng là không nên không có tướng tri nhận; hành là không nên không có tướng tạo tác; thức là Không nên không có tướng giác biết.

Luận: Hỏi: Ý nghĩa này có thứ tự gì? Đáp, “Trước nói, trong năm chúng (uẩn) vốn Không không tồn tại năm chúng (uẩn). Nay trong đó nói nhân duyên ấy. Năm chúng (uẩn), mỗi chúng đều là đặc tướng bất khả đắc. Do đó nói, trong năm chúng (uẩn) vốn Không, không tồn tại năm chúng (uẩn).”

Kinh: Vì sao vậy? Xá-lợi-phất, không phải sắc khác Không, không phải Không khác sắc; sắc tức thị Không, Không tức thị sắc; thọ,tưởng, hành, thức cũng vậy.

Luận: Phật nói thêm về nhân duyên. Nếu năm chúng (uẩn) khác Không, thì trong Không tất phải tồn tại năm chúng. Nay, năm chúng không khác Không, Không không khác năm chúng; năm chúng tức thị Không, Không tức thị năm chúng. Vì vậy, tuy Không, nhưng năm chúng không bị phá. Vì sao? Trong đó, Phật tự nói rõ nhân duyên.

Kinh: Xá-lợi-phất, các pháp ấy vốn là tướng Không, không sinh, không diệt, không cấu, không tịnh, không tăng, không giảm. Pháp vốn Không ấy không phải quá khứ, không phải vị lai, không phải hiện tại. Cho nên, trong Không không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có giới con mắt, cho đến không có giới ý thức; không có vô minh, cũng không có sự tận diệt của vô minh; cho đến không có già-chết, cũng không có sự tận diệt của già-chết; không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo; không có Trí, cũng không có đắc; không có Tu-đà-hoàn, không có quả Tu-đà-hoàn; không có Tư-đà-hàm, không có quả Tư-đà-hàm; không có A-la-hán, không có quả A-la-hán; không có Bích-chi-Phật, không có Bích-chi-Phật đạo; không có Phật cũng không có Phật đạo.

Xá-lợi-phất, Bồ-tát ma-ha-tát tập ưng như vậy, được nói là tương ưng Bát-nhã ba-la-mật.

Luận: Hỏi: Mọi người đều đã rõ trong cái Không không có gì cả, không sinh, không diệt, không cấu, không tịnh, không tăng, không giảm, không có hết thảy pháp; vì sao Phật phân biệt nói mỗi mỗi pháp, một trong năm chúng vân vân, thảy đều Không? Đáp: Có người tuy đã tu tập Không, nhưng tưởng trong Không vẫn có các pháp. Như người hành từ, tuy không tồn tại chúng sinh nhưng lại có tướng chúng sinh được an lạc; vì chính mình được vô lượng phước. Vì vậy Phật nói, các pháp tự chúng luôn luôn là Không. chứ không phải do tam-muội về Không mà khiến cho pháp trở thành Không. Như đặc tướng của nước là lạnh, mà lửa làm cho nó nóng. Nếu nói, do tam-muội về Không mà pháp trở thành Không, thì điều ấy không đúng.

Trí, đây chỉ tám trí vô lậu. Đắc, ở đây chỉ đắc Thánh đạo, từ Tu-đà-hoàn cho đến Phật đạo. Ý nghĩa này đã được nói chi tiết ở đoạn trên.

 


[79] Các chú thích liên hệ, xem phần dịch Tâm kinh Lược bản của Cưu-ma-la-thập ở trên.

 

 

---o0o---

Tựa tái bản


Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận vềộđược xuất bản lần đầu do An tiêm, năm 1972. Sởĩản toàn bộ, vì người dịch thấy cần phải đọc lại bản dịch trước đó, đểửa chữa và bổững sai lầmthiếu sót nhất định phải có; mà công việc này chưa gặp được thuận duyên đểực hiện. Vì vậy, chúng tôi sẽửa chữa từng phần, từng thiên luận, và sẽản dần. Thi Hoa nghiêm và Bát-nhã. Toàn b d không tái b s túc nh th s tái b

Nhân dịp đọc lại và sửa chữa, chúng tôi cũng thêm vào khá nhiều văn bản, tưệu liên quan đến Tâm kinh Bát-nhã. Các văn bản tưệu này giúp các độc giảơởđểựưệm những ý nghĩa tiềm ẩn của Tâm kinh Bát-nhã mà các bản luận giải không thểếđểận thức được. Các tưệu được cung cấp trong đây cũng chỉởừng mức có tính cách gợi ý. Vì nền văn học Bát-nhã, riêng trong Hán tạng, gồm các bản dịch và chú giải, quảật vô cùng đồộ, mà trong điều kiện hiện tại của trình độứu Phật học Việt nam thì công trình phiên dịch khó có thểực hiện cho đầy đủương đối chính xác được. Do đó, người dịch mong độc giảếu cảm thấy có đôi chút hứng thú với các tưệu được cung cấp ởđây, thì cũng chỉứng thú trong chừng mực vừa phải với nhận thức văn tự, ngoài ra thì tựưếu, đểượt qua giới hạn ngôn ngữ, đạt được cho mình những điều ý tại ngôn ngoại. li li có thêm c s t mình t duy và chiêm nghi thay th nh li ch th s nghiên c th và t n li nên h mình t duy quán chi v

 Phật lịch 2547

Quảng Hương Già-lam

Tuệ S

cẩn chí

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26685)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28261)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29422)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33322)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21789)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30683)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31310)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37195)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32335)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27161)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20641)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22264)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 24014)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22880)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23236)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30443)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30117)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23144)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22348)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21800)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 28253)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19291)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20184)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30943)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41550)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32759)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19141)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 34042)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24981)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23705)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25346)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27793)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 25033)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23844)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58771)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23240)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20907)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28207)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28946)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19231)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24620)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21453)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23881)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28634)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29443)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17660)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 31054)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25360)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18980)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 20158)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23966)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 19050)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20180)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20064)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24859)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19426)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22604)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61864)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 31155)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 22129)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant