Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

08. Lại Phá Xích Nhân Duyên Tự Nhiên

22 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 10230)
08. Lại Phá Xích Nhân Duyên Tự Nhiên

Tây Tạng Tự - Bình Dương

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG
Người dịch: Thubten Osall Lama - Nhẫn Tế Thiền Sư


PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG

CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM

Mục 8: Chỉ Rõ Căn Nguyên Hư Vọng Và Tánh Giác Toàn Vẹn


VIII. LẠI PHÁ XÍCH NHÂN DUYÊN, TỰ NHIÊN

A. XƯA NAY KHÔNG VỌNG

Kinh: Khi ấy Ông Anan ở trong đại chúng, đảnh lễ chân Phật rồi đứng dậy thưa rằng: “Đức Thế Tôn hiện nói về các nghiệp Sát, Đạo, Dâm. Ba Duyên đã đoạn, nên ba Nhân chẳng sanh. Tánh điên trong tâm chàng Nhã Đa tự hết, hết tức là Bồ Đề, chẳng từ ai mà được. Đây là nhân duyên rồi, thật là rõ ràng, tại sao Như Lai lại bỏ đi nghĩa Nhân Duyên? Chính tôi từ Nhân Duyên mà tâm được khai ngộ.

“Bạch Thế Tôn! Nghĩa ấy đâu chỉ đối với hàng Thanh Văn Hữu Học tuổi nhỏ như chúng tôi, mà nay trong hội này, Ông Đại Mục Kiền Liên, cùng Xá Lợi Phất, Tu Bồ Đề đều từ Ông lão Phạm Chí nghe được lý nhân duyên của Phật mà phát tâm khai ngộ, được thành vô lậu. Nay nhờ Phật dạy rằng Bồ Đề chẳng do Nhân Duyên, thì các thuyết Tự Nhiên của nhóm Câu Xá Ly thành Vương Xá lại thành Đệ Nhất Nghĩa! Xin Phật rủ lòng từ bi, khai mở cho sự mê lầm”.

Thông rằng: Đức Thế Tôn dạy: “Ba Duyên dứt lìa, nên ba Nhân chẳng sanh”, chính là dạy nhóm Ông Phú Lâu Na chẳng tùy theo phân biệt các pháp ba thứ nhân duyên đoạn diệt nối nhau, thì tánh cuồng điên tự hết, Bồ Đề hiện tiền. Đó là Đức Phật chẳng muốn họ lấy cái Tâm Sanh Diệt mà hợp với Như Lai Tạng, riêng mở ra một pháp môn Đốn Ngộ. Nghĩa là lấy sự đoạn trừ Nhân Duyên mà được cái bất sanh bất diệt còn chẳng cho phép thay, huống là lại có Nhân Duyên sao?

Ông Anan, một bề đa văn, quen theo cái biết Nhân DuyênTự Nhiên phá hoại lẫn nhau, rồi hiểu lầm rằng ba Duyên đoạn dứt, ba Nhân chẳng sanh, nghĩa là theo trong Tiểu Thừa, ba nghiệp Sát, Đạo, Dâm chẳng có duyên theo thì ba nhân Tham, Sân, Si chẳng sanh ra. Nếu có nhân duyên thì có đối đãi, rõ ràng thế kia, sao có thể nói là không có Nhân Duyên? Ngay như Ông Đại Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất gặp được Tỳ kheo Mã Thắng dạy cho “Các Pháp theo nhân duyên mà sanh, các pháp theo nhân duyên mà diệt”, ngay dưới lời nói chứng Sơ Quả, thế là do Nhân Duyênkhai ngộ. Các Trưởng Lão cũng đều như thế. Nay Phật bỏ lý Nhân Duyên, thì hóa ra nhóm Mạt Già Lê, Câu Xá Ly nói rằng “Chúng sanh tuy có sướng khổ, nhưng không có Nhân Duyên, chỉ Tự Nhiên như vậy thôi”, thì có gì khác đâu? Há chẳng biết rằng nghe lý Nhân Duyên của Phật, được thành Vô Lậu, thì chỗ nói “Theo duyên mà sanh, theo duyên mà diệt” là đã ngộ thấy cái yếu chỉ Vô Sanh. Cái sanh diệt kia, đều là Duyên đó vậy, cho nên, đắc Vô Lậu, há lại vướng mắcNhân Duyên ư?

Thị giả Hội Thông của Tổ Ô Sào một ngày kia muốn từ giã mà đi.

Tổ Sào nói : “Nay ông đi đâu?”

Đáp : “Hội Thông này vì Pháp mà xuất gia, Hòa Thượng chẳng rủ lòng từ dạy bảo, nên nay đi các nơi để học Phật Pháp”.

Tổ Sào nói : “Nếu là Phật Pháp thì ở đây ta cũng có chút ít”.

Hỏi : “Như thế nào là Phật Pháp của Hòa Thượng?”

Tổ Ô Sào liền rút ra một sợi lông bố, đưa lên mà thổi.

Thầy Hội Thông bèn lãnh ngộ.

Ngài Phần Dương tụng rằng:

“Sơ tâm thị giả mộ thắng duyên

Biệt thầy định trải học tham thiền

Ô Sào biết đấy, cơ duyên đến

Thổi lông, ngay đó được tâm an”.

Như cái cơ duyên này, há cũng nói là Nhân Duyên ư!

Kinh: Phật bảo Ông Anan: “Như Anh Diễn Nhã Đạt Đa ở trong thành, cái nhân duyên tánh cuồng mà diệt trừ được, thì cái tánh không cuồng tự nhiên hiện ra. Các lý lẽ Nhân Duyên, Tự Nhiên rốt cuộc chỉ là như vậy.

“Anan, Anh Diễn Nhã Đạt Đa cái đầu vốn là tự nhiên, vốn tự như thế, có khi nào mà không tự nhiên đâu, thì vì nhân duyên gì mà sợ cái đầu để phát điên cuồng bỏ chạy? Nếu cái đầu là tự nhiên, vì nhân duyên mà điên thì sao không cứ tự nhiên, vì nhân duyên mà mất? Cái đầu vốn không mất, mà sự điên cuồng sợ hãi vọng có ra, chứ nào có bao giờ thay đổi gì, thì nào phải cần đến nhân duyên. Nếu tính điên vốn là tự nhiên, vốn có sẵn sự điên rồ sợ hãi như vậy, thì khi chưa điên, cái điên ấy núp trốn chỗ nào? Nếu tính không điên là tự nhiên, thì cái đầu cũng vẫn tự nhiên, sao lại điên cuồng bỏ chạy? Nếu ngộ cái đầu vốn sẵn như thế, biết sự phát điên bỏ chạy của mình, thì Nhân DuyênTự Nhiên đều là hý luận.

Thông rằng: Nếu nói Nhân Duyên đoạn diệt rồi sau đó Chân Tánh Bồ Đề tự nhiên hiện ra, thì chẳng phải là chánh luận. Chuyện Anh Diễn Nhã Đạt Đa sợ đầu bỏ chạy mà xét cho cùng, thì chẳng phải Nhân Duyên, chẳng phải Tự Nhiên, dứt khoát rõ ràng vậy. Trước tiên, lấy cái đầu mà luận, thì cái đầu vốn tự nhiên, chắc không thể vì nhân duyên mà bị đoạt mất. Thế sao vì nhân duyên soi gương mà phát cuồng? Đã cho Nhân Duyên là đúng, thì Tự Nhiên không còn đứng vững, thế thì tại sao không do nhân duyên mà thật mất cái đầu? Nhưng cái đầu vốn chẳng mất, anh chàng kia tự cuồng mà chạy, thì cái cuồng này vốn hư vọng có ra, thì rõ ràng chẳng có liên quan gì đến chuyện Nhân Duyên vậy. Đã chẳng từ nhân duyên mà sanh, cũng chẳng theo nhân duyên mà diệt, mà nói nhân duyên tánh cuồng có thể diệt trừ được, là hoàn toàn sai lầm vậy.

Lấy tánh cuồng mà luận, nếu tánh cuồng vốn là tự nhiên thì nó núp trốn ở đâu? Còn tánh không cuồng là tự nhiên thì tại sao điên chạy? Cuồng hoặc không cuồng đều không có tự tánh, chẳng có liên quan gì đến lý Tự Nhiên, thật là rõ ràng như vậy. Đã chẳng phải là tự nhiên núp ẩn, cũng chẳng phải tự nhiên có ra, nên nói tánh không cuồng tự nhiên hiện rasai lầm vậy. Thế nên biết rằng, nói Nhân Duyên, nói Tự Nhiên nào có dính dáng gì với cái đầu? Nói vốn là cuồng, nói vốn là không cuồng, thì nào có xong hết chuyện tánh cuồng? Những thứ ấy đều thuộc về hý luận, chẳng có gì chân thật.

Chỉ cần ngộ được cái đầu xưa nay vốn có sẵn, vốn không hề mất. Biết rõ sự phát điên bỏ chạy, thì điên vốn hư vọng mà có ra. Chỉ một chữ Ngộ này, chỉ một chữ Biết này, tức là sự thọ dụng chân thật của nhà mình, chẳng có lời lẽ nói năng nào đến được nổi. Ngộ cái đầu, tức là ngộ Bản Lai Diện Mục, nào có chút gì đổi khác. Biết cuồng, tức là biết sự vọng sanh ra phân biệt mà chạy điên trong chín cõi. Cái Ngộ ấy, cái Biết ấy, như tia chớp, như lửa xẹt ra từ đá, trong khoảng sát na, há là cái chỗ đứng được của các thứ Nhân Duyên, Tự Nhiên sao? Thế nên, nói rằng “Hết tức Bồ Đề, không do ai mà được, xa lìa các thứ Nhân Duyên và Tự Nhiên” là thế.

Thiền sư Trí Nham ở núi Ngưu Đầu, đời Đại Nghiệp nhà Tùy làm chức Lang tướng, lập nhiều chiến công. Đến đời Vũ Đức nhà Đường, bốn mươi tuổi bèn xin xuất gia, theo học thiền sư Bảo Nguyệt. Có hai người bạn trước ở trong quân đội nghe Ngài ẩn tu, mới vào núi tìm Ngài. Gặp gỡ, mới hỏi rằng: “Lang tướng quân điên sao, ở chốn này làm gì?”

Ngài đáp: “Cái điên của tôi thì sắp tỉnh, cái điên của các ông thì đang phát! Than ôi! Ham sắc mê thanh, tham danh muốn lợi, trôi lăn sanh tử, từ đâu mà có!”

Hai người cảm ngộ, than thở mà đi.

Sau, Ngài tham yết thiền sư Lại Dung, phát minh được đại sự. Tổ Lại Dung bảo rằng: “Ta lãnh nhận yếu quyết chân chánh của đại sư Đạo Tín, chỗ sở đắc đều mất sạch. Nếu như có một pháp vượt hơn Niết Bàn, ta cũng nói như là mộng huyễn. Ôi! Một mảy bụi bay mà che trời! Một hạt cải rơi mà trùm đất! Ông nay đã trải qua cái Thấy ấy, ta lại còn gì nói nữa”.

Bởi thế, hết điên thì như Ngài Trí Nham, có thể nói là Chân Ngộ vậy.

B. ĐƯA VÀO BỒ ĐỀ

Kinh : “Thế, nên Ta nói : “Ba Duyên lìa dứt, tức là Tâm Bồ Đề. Tâm Bồ Đề sanh, tâm sanh-diệt diệt, đó cũng chỉ là sanh diệt. Diệt và sanh đều hết ráo, là vô công dụng Đạo. Nếu có Tự Nhiên, như vậy là nói tâm tự nhiên sanh, tâm-sanh-diệt diệt, thế cũng là sanh diệt, và cái không sanh diệt thì gọi là Tự Nhiên. Cũng như thế gian, những tướng hòa lẫn thành một thể gọi là tính hòa hiệp, còn cái chẳng hòa hiệp thì gọi là tính bản nhiên. Bản nhiên chẳng phải bản nhiên, hòa hợp chẳng phải hòa hợp, hòa hợp và bản nhiên đều lìa. Lìa và không lìa đều chẳng phải. Câu nói ấy mới gọi là pháp không hý luận.

“Bồ Đề Niết Bàn còn ở xa lắm, nếu ông không trải qua nhiều kiếp siêng năng tu chứng thì tuy có ghi nhớ thanh tịnh diệu lý mười hai bộ kinh của mười phương Như Lai như cát sông Hằng cũng chỉ tăng thêm hý luận.

Thông rằng : Đoạn này giãi bày rõ cái ý “Nào nhờ siêng năng cần khổ tu chứng”. Bỗng nhiên cuồng hết chẳng phải khó nhọc đoạn trừ duyên, nên không phải là Nhân Duyên. Nếu nói: “Vì ba Duyên đoạn dứt, thì ba Nhân chẳng có sanh ra, nhờ nhân duyên đó mà được Tâm Bồ Đề”, thế là Tâm Bồ Đề sanh là do tâm sanh-diệt diệt. Diệt Vọng chứng Chân thì Chân cũng thành Vọng, đó cũng chỉ là pháp sanh diệt thôi, chẳng phải là Bồ Đề. Cái nhân duyên như vậy thuộc về sanh diệt, nên cũng dễ hết.

Đến chỗ diệt và sanh đều hết ráo, thì không những tâm sanh diệt hết mà cái diệt sanh diệt cũng hết tận. Đã không có sự sanh ra để diệt, tức là không có công phu nào để dùng. Ở trong đó nếu có cái bất sanh bất diệt mà gọi là Tự Nhiên, thì cái tâm tự nhiên này do nơi diệt và sanh đều hết mà hiển ra, đó là cái tâm tự nhiên sanh. Nhưng nhờ ở tâm sanh-diệt diệt mất mà có thì cũng là pháp sanh diệt, chẳng phải là Bồ Đề. Chữ “cũng” thật có ý vị! Cái không sanh diệt kia gọi là Tự Nhiên, sao cũng gọi là sanh diệt? Vì đối với cái sanh diệthiển bày cái không sanh diệt, thế là có đối đãi vậy. Cũng như đối với hòa hợphiển bày cái không hòa hợp. Có cái bản nhiên thì có cái không bản nhiên, có cái hòa hợp thì có cái không hòa hợp, rõ ràng toàn là đối đãi. Cũng như đối với sừng trâu có, rồi nói sừng thỏ không, nên cũng thuộc về sanh diệt. Cái kia chỉ làm không cái sanh diệt, chẳng có thể làm không cái Tự Nhiên. Cũng như nói “Nhà kia không có người”, thì mới chỉ làm “không” người ở trong đó, chứ chưa “không” được cái nhà. Đó không phải là cái thấy chân thật. Nên nói là hý luận.

Nếu giờ đây mà hợp với không hợp, bản nhiên với không bản nhiên, các pháp đối đãi, hết thảy đều xa lìa mà cũng không có cái tâm xa lìa, nên lìa hay hợp đều mất hết. Đã lìa Sở, lại lìa Năng; Năng Sở đều lìa, chỉ là một Chân Thật, câu này mới gọi là pháp không hý luận.

Nhưng nếu y theo câu này mà giữ Bồ Đề Niết Bàn Vô Thượng, thì cũng còn xa lắm! Vì sao thế? Vì còn ở tại hữu vi, có công phu, có huân tập vậy. Bồ Đề Chánh Giác, Niết Bàn Diệu Tâm chỉ có thể ở tại sát nangộ nhập, chẳng phải là chỗ ông trải qua nhiều kiếp cần khổ để tu chứng được. Cái chẳng do trải qua nhiều kiếp cần khổ tu chứng mà được, cái ấy không nương nhờ Nhân Duyên, Tự Nhiên gì ráo để đắc. Cái mà phải nhờ trải qua nhiều kiếp cần khổ tu chứng, thì tất phải do Nhân Duyên, Tự Nhiên mà được. Cứ thế, thì tuy ghi nhớ diệu lý thanh tịnh của mười phương Chư PhậtPháp không hý luận, cũng chỉ tăng thêm các thứ hý luận Nhân Duyên, Tự Nhiên mà thôi, nào có thật đắc được gì. Nên chi, nghe nói “Ba Duyên đoạn dứt, ba Nhân chẳng sanh”, rồi theo đó phân biệt mà được Tâm Bồ Đề, thì chẳng phải là thực đắc, đó là chỗ nói “Lấy Tâm Sanh Diệt hợp với Như Lai Tạng” vậy. Chỉ không theo đó mà phân biệt, thì tánh cuồng tự hết. Hết là Bồ Đề, không do ai mà được, bèn là thật đắc, vì là lấy cái Chẳng Sanh Chẳng Diệt hợp với Như Lai Tạng vậy. Cái cơ duyên tối thượng này, há đồng với lối nói Tự Nhiên của nhóm Câu Xá Lê được ư?

Đức Lục Tổ dạy: “Cái Bất Sanh Bất Diệtngoại đạo nói, là lấy Diệt dừng Sanh, lấy Sanh mà bày ra cái Diệt, thế là có Diệt mà xem như không Diệt, có Sanh mà nói là chẳng Sanh. Ta nói chẳng Sanh chẳng Diệt là vốn Tự Vô Sanh, nay cũng không có Diệt. Bởi thế, chẳng đồng với ngoại đạo”.

Ngài Tiến Sơn Chủ hỏi Ngài Tu Sơn Chủ rằng: “Biết rõ Tánh sanh mà chẳng sanh, thì vì sao còn lưu lại cái sanh?”

Tu Sơn nói : “Măng rốt cuộc thành tre chứ, như nay làm cật tre, khiến trở lại đâu được!”

Tiến Sơn nói : “Sau này ông sẽ tự ngộ chỗ ấy”.

Tu Sơn nói : “Tôi chỉ như thế, ý chỉ của Thượng Tọa như thế nào?”

Ngài Tiến Sơn nói: “Cái này là Giám Viện Phòng, cái kia là Điển Tòa Phòng”.

Ngài Tu Sơn bèn lễ bái.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng :

“Hoát nhiên mất chỗ nương

Tự do nào chẳng quản

Nước nhà bình ổn thấy ai đâu

Lực lượng mống sanh phân giai cấp

Thân tâm rỗng rang tuyệt thị phi

Thị phi tuyệt!

Lập cả đại phương : không dấu vết!”.

Thế đó, chứng Bồ Đề Vô Thượng vốn đâu có sa vào thềm bực (giai cấp). Lại có dấu vết gì thấy được!

Kinh : “Ông tuy nói lý Nhân Duyên, Tự Nhiên, chắc chắn rõ ràng, người đời xưng ông là đa văn bậc nhất. Vậy mà lấy cái đa văn huân tập nhiều đời đó cũng chẳng khỏi nạn Cô Ma Đăng Già, phải đợi thần chú Phật Đảnh của Ta khiến cho lửa dâm trong lòng cô Ma Đăng Già hết tức thời mà đắc A Na Hàm, hiện ở trong Pháp của Ta, tinh tấn như rừng, sông ái cạn khô, khiến ông giải thoát.

“Bởi thế nên, Anan, ông tuy nhiều kiếp ghi nhớ những bí mật mầu nhiệm trang nghiêm của Như Lai, không bằng chỉ một ngày tu Nghiệp vô lậu, lìa xa thế gian hai thứ khổ ghét-thương. Như Cô Ma Đăng Già, trước là dâm nữ, do sức thần chú, tiêu tan lòng ái dục, nay ở trong Phật Pháp tên là Tánh Tỳ Kheo Ni. Cùng với Da Du Đà La là mẹ của La Hầu La, đồng ngộ được nhân đời trước, biết nhân khiến trải qua nhiều đời, tham ái là khổ, một niệm huân tu pháp thiện vô lậu; một người được ra khỏi trói buộc, còn một người được thọ ký. Sao ông còn tự coi thường mình, ở mãi trong vòng nghe, thấy!”

Thông rằng: Rõ ràng là Ông Anan nhiều kiếp đa văn mà không tránh khỏi nạn Cô Ma Đăng Già, thế thì ghi nhớ diệu lý thanh tịnh của Như Lai không thể chứng quả được. Cũng rõ ràngthần chú Phật Đảnh có thể khiến cho lòng dâm của Cô Ma Đăng Già tức thời tiêu hết, nghĩa là sự huân tu không thể nghĩ bàn khiến tự ra khỏi ràng buộc vậy. Nhớ giữ pháp bí mật nhiệm mầu trang nghiêm, tức là hữu lậu. Bỏ Vọng theo Chân, tức là hai cái khổ thương, ghét. Khổ còn không khỏi, huống là đắc quả ư? Tu tập pháp môn Viên Đốn tức là vô lậu. Ngộ biết nhân đời trước, tham ái chẳng sanh, bèn được thọ ký, nào chỉ đắc quả thôi sao? Cô Ma Đăng Già chứng quả thứ Ba, A Na Hàm, gọi là ra khỏi trói buộc. Bà Da Du Đà La cũng là nhân duyên nhiều kiếp với Đức Thế Tôn, ở hội Pháp Hoa được thọ ký thành Phật. Đây chỉ là nữ giới mà một niệm xoay lòng còn nên bực tinh tấn. Huống gì hàng Thanh Văn các ông, sao tự khinh thường mình, không liền đốn ngộ? Đã thế lại nương nhờ nhân duyên trừ Vọng mà bám lấy hý luận của ngoại đạo để ở mãi trong vòng thấy nghe sao?

Thiền sư Sở Nam thượng đường nói: “Này các ông, dù có hiểu giáo pháp của Chư Phật ba đời như rót nước vào bình, chẳng bằng một niệm tu Vô Lậu Đạo, khỏi bị nhân quả trời người trói buộc!”

Khi ấy có nhà sư hỏi : “Vô Lậu Đạo như thế nào để tu?”

Tổ Sở Nam nói : “Chưa từng có Xà Lê để nắm bắt!”

Hỏi : “Chưa từng có tôi đây, thì dạy ai nắm bắt?”

Đáp : “Cái nắm cũng không!”

Được một hai lời chuyển ngữ này, thì ý chỉ chưa nói hết của Như Lai đã lộ rồi!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 188670)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 43796)
Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất nhiều.
(Xem: 25033)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 30802)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21022)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38741)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 27360)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31084)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33095)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23953)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 16964)
Người học luật mà không hành trì, khó mà hiểu hết những điều được học có nghĩa lý gì. Trì luật, không phải chỉ sống thanh bạch một mình trên núi rừng với nai với khỉ...
(Xem: 20498)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 31896)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp...
(Xem: 18079)
Mục tiêu của đạo đứchạnh phúc, hay nói cách khác, muốn sống có hạnh phúc thì phải sống có đạo đức. Đạo đức phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn phù hợp...
(Xem: 20539)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27011)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 18040)
Giới bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo.
(Xem: 25545)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26629)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36577)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 28043)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 27277)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30319)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37091)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 37241)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23862)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 32273)
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa Nhóm 5: 8 pháp Hối quá Nhóm 6: 100 pháp Chúng học Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.
(Xem: 55126)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 36898)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27561)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28296)
Công Phu Khuya
(Xem: 37938)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 25394)
Giới học là một trong ba học: Giới, Định, Tuệ. Ba học còn được gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến giải thoát...
(Xem: 24125)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
(Xem: 11223)
Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy
(Xem: 14492)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10620)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant