Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện

Friday, March 7, 202518:23(View: 404)
Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện

Khenpo Sodargye Rinpoche
 
 hinh phat 12

QUYỂN MỘT
 
Hồi hướng
Khenpo Sodargye Rinpoche với lòng biết ơn và tình yêu thương sâu sắc!
Cầu mong lòng bi mẫn và trí tuệ của Ngài chiếu tỏa khắp nơi
và giác ngộ mọi hữu tình chúng sinh.
 
CHƯƠNG THỨ NHẤT – THẦN THÔNG TRÊN CÕI TRỜI TAM THẬP TAM

 

Bởi [Bồ TátĐịa Tạng sở hữu sức mạnh và những lời nguyện chẳng thể nghĩ bàn, nếu bất kỳ ai khi nghe được danh hiệu Ngài tôn kính Ngài theo bất kỳ cách nào, chẳng hạn tụng danh hiệu Ngài, tán thán Ngài, kính lễ Ngài, đỉnh lễ Ngài, dâng các cúng dường lên Ngài bằng hoa, hương và đèn, người này sẽ tái sinh trong cõi trời Tam Thập Tam một trăm lần và không bao giờ đọa vào ba cõi thấp, tức địa ngụcngạ quỷ và súc sinh.

– Khenpo Sodargye

 
BÀI GIẢNG THỨ NHẤT – 11/07/2020

 
TẠI SAO TÔI LẠI GIẢNG KINH NÀY?

Theo lịch Tây Tạng, hôm nay (11/07/2020 Dương lịch) là ngày 21 tháng 5, một ngày được Bồ Tát Địa Tạng gia trì. Bất cứ thiện hạnh nào mà chúng ta tiến hành vào hôm nay, công đức tạo ra sẽ nhân lên hàng trăm triệu lần. Thông thường, tôi không giảng Pháp vào thứ Bảy, nhưng vào dịp cát tường này, thật tuyệt vời khi chúng tabắt đầu nghiên cứu Kinh Địa Tạng.

Lần này, tôi sẽ không đi sâu vào chi tiết về Kinh Địa Tạng và tôi cũng sẽ không cung cấp nhiều tham khảomang tính lý luận hay kinh văn bởi Kinh này không phải về lý thuyết hay lô-gic. Thay vào đó, đây là một Kinh rất thực tế, điều có thể được áp dụng trực tiếp vào cuộc sống. Nếu tôi muốn đưa ra những trích dẫn từ Kinh điển và bộ luận hay phô bày bằng chứng và chứng cứ, Kinh Địa Tạng sẽ không phải là một lựa chọn tốt. Trong Phật giáo Trung Hoa, vốn cũng đã có nhiều bài giảng và luận giải mở rộng về Kinh này, chẳng hạn bài giảng của Pháp Sư Tuyên HóaPháp Sư Tịnh Không và Pháp Sư Mộng Tham. Vì thế, nhiều người các bạn có lẽ đã rất quen thuộc với nội dung và tụng Kinh này như một phần của thực hành hằng ngày. Mặc dù có lẽ tôi không cần thiết phải ban giáo lý mở rộng, tôi thực sự có vài lý do để vẫn giảng Kinh này.

Ban Trao Truyền Bản Dịch Tạng Ngữ Của Kinh Địa Tạng

Lý do đầu tiên liên quan đến bản dịch Tạng ngữ của tôi về Kinh này. Trong Phật giáo Trung Hoa, có ba Kinh nổi tiếng về Bồ Tát Địa Tạngcụ thể là, Kinh Địa Tạng Thập LuânKinh Chiêm Sát Nghiệp BáoThiện Ác và Kinh Địa Tạng. Mặc dù Tam Tạng Tây Tạng bao la như đại dương, trong ba Kinh này, chỉ có Kinh Địa Tạng Thập Luân là có sẵn bằng Tạng ngữ. Bởi sự thật là Bồ Tát Địa Tạng rất mạnh mẽ và đã phát nguyện giúp đỡ hữu tình chúng sinh thời suy đồi này, tôi quyết định đầu tiên sẽ dịch KinhĐịa Tạng sang Tạng ngữ để người Tạng hiện đại có thể tạo kết nối sâu sắc hơn với Bồ Tát Địa Tạngbằng cách đọc và nghiên cứu Kinh này.

Tôi vốn lên kế hoạch bắt đầu chuyển dịch vào cuối năm 2019 và dành hai năm để hoàn thành dự án. Sau đó, đại dịch bất ngờ bùng phát vào mùa Đông năm 2019 và giống như nhiều người, tôi bị phong tỏa trong mùa Đông và hầu hết các hoạt động của tôi bị hủy. Vì thế, tôi đã chính thức bắt đầu dịch thuật vào khoảng tháng Một năm 2020. Bởi chúng ta có một lịch trình được tổ chức mỗi ngày trong lúc phong tỏatoàn bộ quá trình dịch thuật diễn ra khá suôn sẻ. Sau hai tháng, trước khi có thể quay vềLarung Gar mùa Xuân này, tôi đã hoàn thành bản dịch nháp. Tôi cảm thấy đây là một món quà đặc biệtchuyển hóa ác nghiệp của tôi thành thực hành tích cực.

Tôi muốn ban giáo lý về Kinh này vào mùa Hè và dùng nó làm cơ hội để đọc và sửa bản dịch Tạng ngữ của tôi. Bởi nhiều người các bạn ở đây hiểu cả tiếng Tạng và tiếng Trung, các bạn có thể giúp tôi kiểm tra xem liệu có bất kỳ sai sót hay mâu thuẫn nào với bản gốc tiếng Trung hay không. Đây là một trong những mục đích khi ban giáo lý này.

Trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng, có một thực hành phổ biến là khi đạo sư biên soạn một bộ luận, Ngài trước tiên sẽ giảng nó cho một vài đệ tử thân cận. Ví dụ, khi Ju Mipham Rinpoche hoàn thành luận giải về Trang Nghiêm Trung Đạo, Ngài đã dành 21 ngày để giải thích nó cho tám đệ tử và sửa lại bản văn trong lúc giảng dạy. Điều này được nhắc đến trong phần kết của luận giải.

Trong trường hợp của tôi, dĩ nhiên, đó là một bản dịch Trung-Tạng. Trong hai thập niên vừa qua, tôi đã dạy các bạn nhiều bộ luận Tạng ngữ ngay sau khi tôi dịch chúng sang tiếng Trung. Tuy nhiên, về Kinh Địa Tạng, thật khó để tôi dạy trực tiếp bằng Tạng ngữ. Vì lẽ đó, chúng ta cứ sử dụng bản gốc tiếng Trung. Nhưng tôi vẫn hy vọng được ban trao truyền bản dịch Tạng ngữ của mình và cùng lúc, tiến hành một số chỉnh sửa lúc bắt đầu mỗi bài giảng.

Vài năm trước, tôi đã dịch Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật từ tiếng Trung sang tiếng Tạng. Sau đấy, vài Khenpo thỉnh cầu tôi ban giáo lý cho hành giả tu sĩ và cư sĩ Tây Tạng. Họ cung cấp nhiều tài nguyên để hỗ trợ cho sự khởi đầu cát tường nhằm truyền bá Kinh này bằng Tạng ngữ; thế nhưng giáo lý vẫn còn trong danh sách chờ của tôi, tôi không chắc khi nào mới là thời điểm thích hợp để làm thế.

Tôi đã không giảng dạy kinh văn cho đại chúng lớn bằng Tạng ngữ trong nhiều năm. Vì thế, với Kinh Địa Tạng, tôi không nghĩ tôi sẽ lên kế hoạch giảng dạy bằng tiếng Tạng trong tương lai gần. Tôi sẽ chỉ tận dụng cơ hội này để đọc nó bằng Tạng ngữ trong khi giải thích bằng tiếng Trung nhằm tạo kết nối cát tường với Kinh này cho cộng đồng Tây Tạng, cũng như mọi chúng sinh trên thế gian này.

Thiết Lập Hoàn Cảnh Cát Tường Để Hoằng Dương Thực Hành Địa Tạng

Lý do thứ hai, cũng là lý do quan trọng nhất, là hoằng dương thực hành Địa Tạng và để sự gia trì của Địa Tạng vươn đến khắp nơi trên thế gian và thâm nhập vào tâm của mọi chúng sinh trong hiện tạicũng như tương lai.

Những phẩm tính và gia trì của Bồ Tát Địa Tạng thật phi phàm. Khi Kyabje Jigme Phuntsok Rinpoche còn trụ thế, Ngài thường tán thán công đức của Địa Tạng và thiết lập truyền thống trong Tăng đoàncùng nhau cầu nguyện đến Địa TạngTruyền thống này vẫn tiếp tục sau khi Ngài viên tịch. Hằng năm, trước và sau dịp kỷ niệm cát tường Phật chuyển Pháp luân lần đầu tiên, chúng ta tổ chức Pháp hội Địa Tạng tám ngày, trong đó, chúng ta chủ yếu tụng danh hiệu của Địa Tạng và Chân ngôn dài của Ngài như được ghi lại trong Kinh Địa Tạng Thập Luân. Tầm quan trọng của thực hành này vẫn luôn được công nhận.

Quay trở về năm 1986, khi Phật giáo bắt đầu được chấn hưng ở vùng Tây Tạng sau khi bị đàn áptrong nhiều thập niên, Kyabje Jigme Phuntsok Rinpoche đã viếng thăm nhiều Tu viện cần giúp đỡ. Với từng ngọn núi thiêng mà Ngài đến, Kyabje Rinpoche đầu tiên tịnh hóa ngọn núi bằng cách cử hànhnghi lễ về thực hành Đà-ra-ni Kim Cương Tồi Toái [Vajravidarana], sau đó yêu cầu các thành viên Tăng đoàn tụng danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng và Sức Trang Hoàng Đẹp Đẽ Của Thế Gian – Lời Tán Thán Đức Địa Tạng do Ju Mipham Rinpoche soạn. Nhờ làm vậy, mọi ô nhiễm và bất tường mà bất kỳ kẻ không có niềm tin hay bất kỳ kẻ phá giới nào tạo ra đều được tịnh hóa.

 Cá nhân tôi tin rằng Kyabje Jigme Phuntsok Rinpoche có kết nối đặc biệt với Bồ Tát Địa Tạng và sự gia trì thù thắng của Địa Tạng chẳng bao giờ rời xa Ngài. Nhờ sự gia trì của Kyabje Rinpoche, tôi cũng có lòng sùng mộ mạnh mẽ với Địa Tạngcảm thấy rằng là đệ tử truyền thừa của Kyabje Rinpoche, tất cả chúng ta đều có kết nối đặc biệt với vị Bồ Tát vĩ đại này. Vài năm trước, tôi đã dịch Tiểu Sử Tám Đại Bồ Tát của Ju Mipham Rinpoche sang tiếng Trung, điều thực sự giới thiệu những phẩm tính của Địa Tạng.

Tôi không thể nhấn mạnh hết tầm quan trọng của việc hoằng dương thực hành Địa Tạng đến toàn bộthế giới. Trong tương lai, hầu hết các bạn sẽ có cơ hội giảng Pháp ở những nơi khác nhau và tôi chắc chắn rằng các bạn sẽ đem lợi lạc lớn lao đến cho đệ tử nếu có thể hướng dẫn họ về thực hành Địa Tạng. Đấy là lý do tôi quyết định giảng Kinh Địa Tạng dẫu cho nó chỉ tồn tại trong Tam Tạng Trung Hoa và tôi thậm chí còn không có sự trao truyền.

Tôi thực sự tin rằng giảng dạy về Kinh này có thể làm khởi lên nhân cát tường để mọi người trên khắp thế giới thiết lập một kết nối sâu sắc với Địa Tạng và thọ nhận sự gia trì phi phàm của Ngài, điều gì đó hoàn toàn cần thiết trong thời kỳ ngày càng suy đồi hiện nay. Khi tiến hành dịch thuật, hy vọng chân thành của tôi là khích lệ mọi người nghiên cứu Kinh Địa Tạngcầu nguyện đến Địa Tạng và tham giavào thực hành Địa Tạng. Nếu người ta có thể làm tượng Địa Tạng, in ấn và truyền bá Kinh Địa Tạng, tụng danh hiệu và Chân ngôn của Ngài càng thường xuyên càng tốt, họ chắc chắn sẽ tích lũy vô vàn công đức cho đời hiện tại và mọi đời tương lai, và cũng đem đến hòa bình – hạnh phúc cho toàn bộthế giới.

Chuyển Hóa Thiên Tai Và Nhân Tai Trên Thế Giới

 Lý do thứ ba là đem hòa bình và hạnh phúc đến thế gian. Như chúng ta biết, năm 2020 là một năm khó khăn và nhiều người đau khổ vì tai ương bất ngờ hay thậm chí là chưa từng thấy. Cho đến nay, hơn nửa triệu người đã qua đời vì COVID-19. Số người nhiễm mới lên đến hàng vạn mỗi ngày ở những quốc gia như Hoa Kỳ và Ấn Độ. Điều đó thật khủng khiếp với cả thế giới.

Bên cạnh đó, một số thiên tai vẫn xảy ra ở những vùng khác nhau trên thế giới. Bệnh dịch hạch, một căn bệnh đáng sợ có thể gây tử vong sau vài ngày nhiễm bệnh, gần đây được phát hiện ở Mông Cổ. Chỉ vài ngày trước, Mông Cổ đã cách ly cả một vùng sau khi xác định hai người có triệu chứng của bệnh dịch hạch. Nội Mông, một tỉnh miền Bắc của Trung Quốc, bị đe dọa bởi bệnh dịch hạch trong khi nhiều trận lũ nghiêm trọng đe dọa mạng sống và nhà cửa của dân chúng 27 tỉnh khắp miền Trung và Nam Trung Quốc. Lũ lụt thảm khốc được cho là tồi tệ nhất trong 60 năm vừa qua và cho đến nay, đã gây thiệt hại 70 tỷ Nhân Dân Tệ và hơn 100 người chết.

Ngoài những thiên tai này, mối quan hệ quốc tế cũng không mấy tích cựcCăng thẳng chính trị giữa nhiều quốc gia đã gia tăng đáng kể trong đại dịch. Với tất cả những sự kiện này, ba tai ương nhẹ hơn được tuyên bố trong Kinh điển, tức dịch bệnh, nạn đói và chiến tranh, dường như đã ở bên chúng ta. Thực sự, tất cả tai ương tự nhiên và nhân tạo đều liên quan đến cộng nghiệp của chúng ta. Trong thời hiện đại này, người ta phạm phải quá nhiều ác hạnh. Với sự hỗ trợ của công nghệ hiện đạisát sinhtrở nên đặc biệt dễ dàng và còn tàn bạo hơn trước. Kết quả là, công đức của mọi người suy giảm rõ rệt và nhiều người đang nhận lãnh nghiệp báo từ những ác hạnh nặng nề của họ ngay trong chính đời này.

Những người chúng ta sống ở thung lũng xa xôi này có lẽ không có nhận thức đầy đủ về thế giới ngoài kia. Tuy nhiênthực tế là người dân ở nhiều quốc gia đã và đang trải qua những thay đổi sâu sắc trong cuộc sống trong nửa năm vừa qua và một số thậm chí có thể cảm thấy rằng họ đã bị ném từ thiên đường xuống địa ngục. Thực sự, khi ác nghiệp chín muồi thành kết quả, người ta khó có thể thoát khỏikhổ đau của họ. Vô thường có thể tự mình hiển lộ. Chẳng mấy chốc, niềm vui và đặc quyền biến mất không dấu vết hay trở thành cội nguồn khổ đau. Khi những thay đổi không mong đợi xảy đến, lấy ví dụ, kinh doanh phá sản, khoản thế chấp và những khoản nợ xe hơi không thể được chi trả, một số người chẳng thể đối mặt và lựa chọn từ giã thế gian. Số khác, mặc dù không kết liễu cuộc đời, thấy vô vọng trong việc thoát khỏi những rắc rối và khổ đau, bất kể họ hướng về ai hay đi đâu, bởi những người xung quanh cũng như họ, chẳng được giúp đỡ. Tìm hiểu về những nỗi buồn và thất vọng này, chúng ta có thể dễ dàng đồng cảm với khổ đau ghê gớm của họ.

Cách tốt nhất để chuyển hóa những ác nghiệp như vậy là cầu nguyện với lòng sùng mộ mạnh mẽ đến Địa Tạng. Là một trong Tám Đại Bồ TátĐịa Tạng nổi tiếng về sức mạnh và lời nguyện thù thắng để hoàn thành mong ước của mọi hữu tình chúng sinhCụ thể hơn, Ngài có kết nối đặc biệt với những chúng sinh đau khổ trong thời suy đồi và vì thế, sẽ chăm sóc chúng ta với lòng bi mẫn phi phàm. Do đó, điều quan trọng là chúng ta nương tựa sức mạnh và sự gia trì của Địa Tạng và truyền bá thực hành Địa Tạng.

Trong Kinh Địa Tạng Thập Luân có tuyên bố rằng, “Nhiều kiếp cung kính và cầu khẩn đa dạng đến Quán Thế ÂmVăn ThùDi LặcPhổ Hiền và vô số Bồ Tát thù thắng khác, chẳng hạn quy y chư vị, tụng danh hiệu của chư vị, kính lễ và dâng cúng dường lên chư vị, cũng không hiệu quả nhanh chóng như làm vậy với Bồ Tát Địa Tạng trong một khoảnh khắc trong việc hoàn thành mong ước. Tại sao vậy? Bởi Địa Tạng ưu việt trong việc đem an bình và hạnh phúc đến cho hữu tình chúng sinh và Ngài có thể nhanh chóng ban tặng mọi thứ mà hữu tình chúng sinh mong muốn. Ngài giống như ngọc báu như ý và kho tàng ẩn giấu bởi lời nguyện mạnh mẽ và lòng bi mẫn bao la, cũng như lòng dũng cảm và sự tinh tấn trong việc thực hành những lời nguyện trong vô số kiếp”.

Từ điều này, chúng ta biết rằng Địa Tạng thực sự là Bồ Tát như ý nguyện mà chúng ta cần cầu nguyện đến. Khi người ta cầu nguyện đến những vị thần thế gian và thần đất, chư vị có thể hỗ trợ bằng công đức và sức mạnh của họ trong một thời gianTuy nhiên, chẳng có sự không chắc chắn nào như vậy với Bồ Tát Địa Tạng, vị đã phát nguyện “không thành Phật cho đến khi tất cả địa ngục trống không”. Với lời nguyện toàn diện như vậy, Ngài chắc chắn sẽ nhanh chóng ban gia trì và hoàn thành những mong ước miễn là chúng ta cầu nguyện đến Ngài.

Về những tai ương không ngừng đang diễn ra trên khắp thế giới, không ai có thể nói chắc liệu chúng ta có còn sống vào năm tới hay không. Để đem đến sức khỏean bình và hạnh phúcđạt được sự an lành cũng như thịnh vượng không chỉ cho bạn bè và gia đình của chúng ta mà tất cả hữu tình chúng sinh trên thế gian này, chúng ta cần cùng nhau thành tâm nghiên cứu Kinh Địa Tạng và cầu nguyệnđến Địa TạngThời khắc hiện tại là thời điểm tốt để tôi giảng Kinh Địa Tạng cho tất cả các bạn.

Mặc dù hiện nay chúng ta không thể phát trực tiếp buổi giảng và số lượng người nghe cũng bị hạn chếhơn, sự cầu khẩn tập thể của chúng ta đến [Bồ TátĐịa Tạng vẫn có thể đem đến lợi lạc tuyệt vời cho cả thế giới. Tôi tin rằng nhiều người các bạn đã thiết lập kết nối thân thiết với [Bồ TátĐịa Tạng và thọ nhận sự gia trì của Ngài. Chừng nào chúng ta còn cầu nguyện đến vị Bồ Tát vĩ đại này với niềm tin và lòng sùng mộ chân thànhsức mạnh diệu kỳ của Ngài chắc chắn sẽ đem đến những chuyển biến lớn lao trên thế gian này. Vì vậy, trong mỗi bài giảng, chúng ta sẽ cùng nhau tụng danh hiệu của Địa Tạngđể thành tâm mong ước rằng tất cả bất hạnh và tai ương tự nhiên và nhân tạo trên thế giới đều được xua tan nhanh chóng và nếu có bất kỳ tổn thất nào, cầu mong tổn thất được giảm xuống mức thấp nhất. Mỗi lần, chúng ta sẽ tụng danh hiệu Địa Tạng theo cách này:

Bồ Tát Ma Ha Tát Địa Tạng, con đỉnh lễ! Con cúng dường! Con quy y! (7 biến)

 

Địa Tạng Bồ Tát, Ngài phát những lời nguyện vĩ đại,

Với đại trí, bi, dũng, Ngài hoàn thành mọi hoạt động,

Với trí thù thắng, Ngài hiển bày vô số phẩm tính.

Con đỉnh lễ: Hãy ban thành tựu như vậy cho tất cả chúng con!

 THƯ VIỆN TẠI LARUNG GAR

Nói về những luận giải của Kinh Địa Tạng, chúng đều có sẵn trong thư viện mới của chúng ta dành cho chư Ni – Thư Viện Larung Liên Hoa Tự. Thật tuyệt vời khi giờ đây chúng ta có một thư viện tại Larung Gar để hỗ trợ sự nghiên cứu của tất cả chư Ni tại đây. Tôi đang lên kế hoạch để xây dựng một thư viện khác cho chư Tăng. Tôi vô cùng trân trọng công việc vất vả của nhóm tình nguyện viên để điều hành một thư viện tuyệt vời như vậy. Nếu có một thư viện như thế khi tôi còn trẻ, tôi sẽ rất phấn khởi bởi là một tu sĩ trẻ, tôi chủ yếu tập trung vào nghiên cứu Giáo Pháp. Nếu tôi có được tài nguyên tốt đến vậy với đủ mọi Kinh điển và bộ luận có sẵn, tôi đã có thể tìm được bất cứ thứ gì tôi muốn để giải đáp những câu hỏi của bản thân và làm sâu sắc sự hiểu của mình. [Nếu vậy,] tôi cũng sẽ có thể có được những hiểu biết giá trị về các lĩnh vực khác, điều có thể mở rộng tầm nhìn của tôi và được lợi lạctừ trí tuệ của những bậc vĩ đại khác. Bởi hiện nay tôi đã lớn tuổi, thị lực suy giảm và những trách nhiệm khác khiến thật khó để tôi đọc mọi thứ mà tôi muốn đọc.

Tôi cũng có những kế hoạch xây dựng một thư viện ở quê hương của mình. Năm ngoáichúng tôi đã làm việc cho dự án này, nhưng bất ngờ, chúng tôi đã phải tạm ngưng dự ánChúng tôi sẽ cố gắng làm mới lại dự án ngay khi có thể. Thư viện này sẽ thu thập sách về những chủ đề khác nhau từ cả tâm lĩnh lẫn thế tục.

Mong ước của tôi là xây dựng nhiều thư viện trong suốt đời mình. Với nhiều cuốn sách quý được thu thập, một thư viện có thể là kho tàng tuyệt vời phục vụ những người tìm kiếm kiến thức giá trị và trí tuệvĩ đại. Khi tôi viếng thăm nhiều đại học ở nước ngoài, bất cứ khi nào tôi thấy thư viện của họ, tôi lại nghĩ rằng thật tốt làm sao nếu Larung Gar và quê hương tôi cũng có kiểu thư viện như vậy để cung cấp hỗ trợ cần thiết cho các nghiên cứu của học trò. Tại Đại Học Harvard, các thư viện đầy ắp sinh viên và học giả bận rộn bất kể ngày đêm. Tôi thực sự ngưỡng mộ môi trường nghiên cứu như vậy.

Với gia trì của thầy tôi và Tam Bảo, cùng với sự hội tụ của nhiều nhân và duyên thuận lợi, chúng ta giờ đây có Thư Viện Liên Hoa Tự cho chư Ni. Hôm trước, Khenpo Tsultrim Lodro và tôi đã đến thư viện và chúng tôi rất hoan hỷ rằng trong thời gian ngắn như vậy, mọi thứ đã ổn định và được sắp xếp tốt. Chúng tôi vẫn đang cố gắng thu thập thêm nhiều sách bằng các ngôn ngữ khác nhau, đặc biệt là Kinh điển và bộ luận Phật giáo, từ những nguồn khác nhau. Mặc dù có những thăng trầm trong suốt quá trình hoàn thành dự án, kết quả thật xuất sắc và tôi trân trọng công việc vất vả của tất cả. Có thể đóng góp cho hành trình tìm kiếm trí tuệ của thành viên Tăng đoàn thực sự là điều ý nghĩa. Với động cơ thanh tịnh như vậy, tất cả những vị liên quan cũng đã tích lũy công đức to lớn.

TÍNH XÁC THỰC CỦA KINH ĐỊA TẠNG

Cần phải chỉ ra rằng một số học giả nghĩ rằng Kinh Địa Tạng là ngụy kinh. Nếu đó là ngụy kinh, sẽ chẳng có ý nghĩa nào trong việc dịch nó sang Tạng ngữ bởi sẽ chẳng có lợi lạc nào cho thế hệ sau khi nương tựa một Giáo Pháp giả để thực hành. Nhưng tôi hoàn toàn tin tưởng rằng Kinh này chính xác là giáo lý của Đức Phật và trong lúc chuyển dịch, tôi cũng đọc nhiều bình giảng liên quan về Kinh này được ban bởi nhiều đạo sư Trung Hoa vĩ đại, chẳng hạn Pháp Sư Ngẫu Ích, Pháp Sư Liên TrìPháp Sư Ấn Quang và Pháp Sư Hoằng Nhất. Để xua tan bất kỳ nghi ngờ nào cho những vị muốn nương tựa Kinh này để tham gia vào thực hành Địa Tạng, tôi muốn nhắc đến hai điểm nhằm giải thích tính xác thực của Kinh này.

Không Nằm Trong Danh Sách Dịch Thuật Của Ngài Siksananda

Một số người nghi ngờ tính xác thực của Kinh Địa Tạng bởi họ nghĩ rằng nó không được Ngài Siksananda (Thật Xoa Nan Đà, 652-710) dịch. Họ chứng minh quan điểm này với bằng chứng rằng Kinh này không nằm trong danh sách dịch thuật của Ngài Siksananda. Với tôi, đây không phải là bằng chứng hợp lệ bởi danh sách dịch thuật mà họ nhắc đến có thể không phải là bản đầy đủ.

Ngài Siksananda đến từ Khotan, ngày nay là Hetian ở khu tự trị Tân Cương (Xin Jiang Uygur), nơi vốn là một quốc gia vào Triều Đường, như được nhắc đến trong Đại Đường Tây Vực Ký của Ngài Huyền Trang và Phật Quốc Ký của Ngài Pháp Hiển. Trong ghi chép của mình, Ngài Pháp Hiển kể lại cách thức Phật giáo đang phát triển khi Ngài đến Khotan: “Có hàng vạn tu sĩ, hầu hết là hành giả Đại thừa. Mỗi hộ có một bảo tháp trước cửa, thứ được dùng để những tu sĩ du hành từ khắp nơi lưu lại, với mọi đồ đạc được chuẩn bị kỹ lưỡng”. Tuy nhiên, bởi những thay đổi lịch sử, hầu hết dân cư ở đó hiện nay đang theo những tôn giáo khác hay chẳng có tôn giáo nào.

Siksananda là một Tam Tạng Pháp Sư, một Tỳ Kheo và cũng là một dịch giả lỗi lạc thời ấy. Ngài được Nữ Hoàng Đế Võ Tắc Thiên hết mực kính trọng. Nữ Hoàng Đế đã có những đóng góp lớn lao với việc dịch thuật những kinh văn Phật giáo từ tiếng Phạn sang tiếng Trung. Bởi lòng sùng mộ chân thành và những nỗ lực tuyệt vời khi đưa Phật giáo Đại thừa đến Trung Quốc, bà ấy thực sự có thể được xem là một vị vua [tuân theoGiáo Pháp trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc. Khi ấy, phiên bản Kinh Hoa Nghiêm chỉ có 60 quyển. Nghe nói rằng có một phiên bản đầy đủ hơn ở Khotan, Nữ Hoàng Đế đã thỉnh mời Ngài Siksananda đến Trung Quốc để chịu trách nhiệm dịch thuật Kinh Hoa Nghiêm 80 quyển. Năm 695, Ngài Siksananda đến Lạc Dương và bắt đầu dịch thuật. Năm 699, Ngài hoàn thànhdự án lớn này và sau đó, Ngài dịch nhiều Kinh nữa, bao gồm cả Nhập Lăng Già Kinh. Sau đấy, năm 704, Ngài Siksananda trở về Khotan để chăm sóc mẹ già. Vài năm sau, được Hoàng Đế Trung Tôngthỉnh mời, Ngài trở lại Trung Quốc và tiếp tục dịch thuật. Không may thay, Ngài qua đời không lâu sau khi đến Trường An vào năm 710, ở tuổi 59.

Về mặt lịch sử, một số đạo sư vĩ đại sống cuộc đời trường thọ trong khi số khác viên tịch ở tuổi trẻhơn. Nhìn chung, trước kia, ai đó sống hơn tám mươi tuổi cũng là chuyện khá lạ. Tôi thường nghĩ tôi sẽ hài lòng nếu có thể sống đến bảy mươi tuổi, nhưng chúng ta chẳng bao giờ có thể nói trước bởi vô thường có thể giáng xuống bất kỳ lúc nào, thứ vô hình nhưng đáng sợ. Vài người các bạn có thể nghĩ rằng bạn sẽ sống thọ nhưng thật sự khó mà chắc được. Tôi hy vọng các bạn đều chuẩn bị kỹ lưỡng cho vô thường để khi nó xảy đến, dù với sức khỏecủa cải hay nơi ở của bạn, bạn sẽ không trở nên tuyệt vọng hay cảm thấy hối tiếc và tội lỗi về bất kỳ điều gì. Nếu bạn vẫn đang thực hành tốt, bạn sẽ có thể đối mặt với vô thường bằng sự thoải mái đặc biệt.

Như chúng ta có thể thấy, Ngài Siksananda sống cuộc đời ngắn ngủi và dành khoảng mười năm để dịch Kinh ở Trung QuốcTuyên bố rằng không có Kinh Địa Tạng trong danh sách dịch thuật của Ngài Siksananda chủ yếu dựa trên sự thật rằng Kinh này không nằm trong Danh Mục Khai Viễn Về Các Bản Văn Phật Giáo được kết tập bởi tu sĩ Trí Thăng vào năm 730. Nhưng đây chắc chắn không phải là một bằng chứng đủ để chứng minh rằng Ngài Siksananda không dịch Kinh này. Một điều cần lưu ý trong danh mục của Trí Thăng. Nó nói rằng Ngài Siksananda đã dịch 19 kinh văn, nhưng Trí Thăng không cung cấp đủ tên của 19 kinh văn trong danh mục của ông ấy. Như Pháp Sư Liên Trì đã nói, “Kinh Địa Tạng thực sự được Ngài Siksananda dịch. Ai đó tuyên bố rằng nó được thực hiện bởi những vị khác nhưng lại không thể cung cấp bất kỳ thông tin đáng tin cậy nào về dịch giả thay thế. Điều này thực sự vô căn cứ và không đáng tin”.

Việc một hay hai tác phẩm bị thiếu trong danh sách trước tác của một đạo sư vĩ đại không phải là chuyện lạ. Ví dụ, một số tác phẩm của Mipham Rinpoche ban đầu không nằm trong danh sách các tác phẩm đầy đủ của Ngài. Điều tương tự đã xảy ra với Rongzom Mahapandita và Dorje Dechen Lingpa. Là một Terton vĩ đại, nhiều Terma mà Dechen Lingpa phát lộ được tìm thấy ở những địa điểm khác nhau trong khi bị thiếu trong một danh mục tác phẩm trước đó. Vì thế, việc không nằm trong danh sách dịch thuật của Ngài Siksananda là chưa đủ để tuyên bố rằng Kinh Địa Tạng là ngụy kinh.

Thực sự, khi chúng ta xem xét lối dịch của Kinh Địa Tạng, nó khá nhất quán với bản dịch Kinh Hoa Nghiêm của Ngài Siksananda. Nhìn chung, một dịch giả thường có cách dịch riêng về những thuật ngữ và cụm từ nhất định, lấy ví dụ, cách nhắc đến một vị Phật hay Bồ Tát. Vì thế, trước khi bắt đầu dịch thuật, tôi đã dành nhiều thời gian so sánh lối dịch của phiên bản Kinh Hoa Nghiêm 80 quyển và Kinh Địa Tạngđặc biệt tập trung vào danh hiệu của chư Phật và Bồ Tát được sử dụng trong hai Kinh này, cũng như cách mà các Tịnh độ khác nhau được gọi và phong cách văn chương nói chung. Nhờ sự phân tích này, tôi tin chắc rằng hai Kinh này được dịch bởi cùng một người.

Không Tìm Được Bản Phạn Ngữ

Một số học giả nghi ngờ rằng Kinh Địa Tạng là ngụy kinh bởi không tìm thấy bản Phạn ngữLý do này cũng lại chưa đủ. Không tìm thấy không có nghĩa là nó chưa từng tồn tại. Không phải bản Phạn ngữgốc của mỗi một Kinh đều có sẵn hiện nay; điều này xảy ra với nhiều kinh văn được công nhận rộng rãi. Thế nhưng, việc tìm ra Kinh Địa Tạng bằng chữ Tangut [Đảng Hạng] trong những Bản Thảo Đôn Hoàng vào năm 1989 cung cấp bằng chứng mạnh mẽ chứng minh tính xác thực. Khác với bản Tangut của Kinh này được Paul Pelliot tìm thấy vào năm 1908, thứ mà một số vị cho là được dịch từ bản tiếng Trung của Ngài Siksananda, bản văn được tìm thấy vào năm 1989 chứa đựng những Chân ngônđược phiên âm từ Phạn ngữ, thứ bị thiếu trong bản tiếng Trung của Ngài Siksananda. Như thế, điều đó ám chỉ rằng bản Tangut 1989 thực sự được dịch từ Phạn ngữ và sau đó, được giữ gìn ở Đôn Hoàng dưới Triều Tây HạKết luận này được nhiều sử gia và nhà khảo cổ ủng hộ và tôi cảm thấy rằng không có nghi ngờ gì về tính xác thực của Kinh này.

Tính Cần Thiết Của Việc Xua Tan Nghi Ngờ

Nhưng tại sao một số vẫn nghi ngờ rằng Kinh Địa Tạng là ngụy kinh? Sự thật là không chỉ Kinh Địa Tạng ở trong tình thế như vậy. Nhiều Kinh được công nhận rộng rãi cũng gặp phải kiểu tranh cãi này trong nghiên cứu học thuật. Như chúng ta đã thảo luận trong bài giảng về Kinh Lăng Nghiêm, trong khi thật tuyệt khi ngày càng nhiều kinh văn Phật giáo đón nhận sự quan tâm mang tính học thuật cao, một số nhà nghiên cứu thường rút ra kết luận tùy tiện về một Kinh nhất định khi chưa có sự tìm hiểu đầy đủ. Ví dụ, nếu họ chưa quen với phong cách của một Kinh điển hình, hay nội dung của Kinh đó nằm ngoài sự hiểu thông thường của họ về Phật giáo, hay họ không thể giải mã Kinh này bằng cách tiếp cận học thuật đã được thiết lập của bản thân, họ đôi khi lại đưa ra kết luận vội vàng rằng đó là ngụy kinh. Bởi một số thậm chí lại là học giả nổi tiếng, những tuyên bố bất công của họ được nhiều người chấp nhậnCuối cùng, những tuyên bố này trở thành kết luận dường như đáng tin cậy và như thế, tạo ra ảnh hưởng vô cùng tiêu cực với cả nhà nghiên cứu học thuật và hành giả Phật giáo.

Khi họ hiểu rõ ràng những ưu và nhược điểm của nghiên cứu học thuậthành giả Pháp lâu năm, những vị nghiên cứu và quán chiếu Giáo Pháp nhiều năm, chắc chắn sẽ không dễ dàng mê muộitrước những tuyên bố tùy tiện như vậy. Tuy nhiên, với những vị chưa nhận được nhiều sự rèn luyện về triết học Phật giáo và có thiên hướng mạnh mẽ với nghiên cứu học thuật, họ có thể dễ dàng bị dẫn đến kết luận vội vàng và chủ quan mà không lưu ý đến lập luận thiếu hợp lý của nó. Thực tế là, cả học giả, người tuyên bố một Kinh chân chính là ngụy kinh và môn đồ của vị ấy, những người tin tưởngchắc chắn vào kết luận đó, đều phạm phải ác nghiệp nghiêm trọng vì phỉ báng và từ bỏ Giáo Pháp, điều gì đó thật khó tịnh hóa trong đời này và các đời tương lai.

Vì thế, điều cốt yếu là các Phật tử lâu năm cần làm sáng tỏ vấn đề và sửa chữa quan điểm sai lầmNếu khôngảnh hưởng tiêu cực sẽ tiếp tục tồn tại và gây ra ác nghiệp cho nhiều chúng sinh. Trong trường hợp của Kinh Lăng Nghiêm, những quan điểm sai lầm của một vài học giả trong quá khứ đã và vẫn đang gây ra nghi ngờ về Kinh này cho nhiều người thậm chí cho đến hiện nay, khi một số người vẫn giữ quan điểm rằng đây là ngụy kinh. Thực sự rất đáng tiếc khi nhiều người tích lũy ác nghiệpnghiêm trọng bởi thiếu nhận thức đúng đắn và trí tuệ.

Là Phật tử Đại thừachúng ta cần hiểu khi nào chúng ta cần cất tiếng nói và khi nào cần im lặng. Nếu chúng ta không giữ im lặng vào những dịp thích hợp, chẳng hạn như lúc ở cùng các hành giả đạo hữu, mà thay vào đó lại nhẫn nhục không cần thiết khi người khác vô cớ phỉ báng Giáo Phápcảm thấyrằng chúng ta cần giữ im lặng và không tham gia vào những tranh cãi này, điều đó thực sự cho thấy sự hèn nhát và vô minh của chúng ta. Thật sự, chúng ta cần lên tiếng và làm bất cứ điều gì cần thiếtđể bảo vệ và giữ gìn Giáo Pháp cao quý, và cũng để ngăn những chúng sinh này tạo ra ác nghiệp, thứ sẽ khiến họ đọa cõi thấp.

Sống trong thế giới hỗn loạn này với mọi kiểu suy đồichúng ta không nên dễ bị tổn thương và yếu đuối, trao cho người khác ấn tượng rằng Phật tử luôn luôn im lặng và không có ảnh hưởng mạnh mẽ. Nếu chúng ta xuất hiện là thiếu năng lực đến mức thậm chí chẳng thể bày tỏ quan điểm một cách thích hợp, thì người ta khó có thể tôn trọng và cung kính giáo lý của Đức Phật. Vì thế, trong khi chúng ta cần duy trì khiêm cung và giản dị trong đời sống và thực hành hằng ngàychúng ta không cần phải mong manh và nhút nhát. Thay vào đó, chúng ta cần mạnh mẽ, kiên quyết, kiên cường và quyết tâm, khiến tiếng nói của chúng ta được nghe thấy và hành động khi cần thiết.

Dẫu sao, chúng ta bây giờ sẽ tập trung vào nghiên cứu Kinh Địa Tạng. Bởi Kinh này chứa đựng sự gia trì mạnh mẽ và bao trùm đến vậy, chúng ta cần chân thành trân trọng cơ hội quý báu được nghiên cứucùng nhau và luôn luôn tinh tấn trong việc cầu nguyện đến Bồ Tát Địa Tạng và quán chiếu giáo lý.

TỰA ĐỀ CỦA KINH

Tên đầy đủ của Kinh này là Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh. Từ Ksitigarbha trong Phạn ngữđược dịch theo nghĩa đen là Kho Tàng Đất, điều có thể được giải mã theo nhiều cách khác nhau. Ví dụ, nó chỉ ra rằng lời nguyện giải thoát và làm lợi lạc hữu tình chúng sinh của vị Bồ Tát vĩ đại này vững chắc như mặt đất; hay giống như mặt đất là nền tảng của mọi thứ, vị Bồ Tát này giống như một kho tàng đất vĩ đại, thứ chứa đựng mọi kiểu phẩm tính thế gian và xuất thế gian; bởi vị Bồ Tát này có thể hoàn thành mọi mong ước của hữu tình chúng sinhnhư kho tàng như ý, Ngài vì thế được gọi là “Kho Tàng Đất”.

Là một trong Tám Đại Bồ Tát, Kinh này giải thíchnhững nguyện gốc của Địa Tạng và hoạt động bao la giải thoát hữu tình chúng sinh khỏi khổ đau của Ngài. Những lời nguyện của Địa Tạng có thể được tóm tắt lại thành “chỉ sau khi mọi chúng sinh được dẫn dắt đến giác ngộ thì tôi mới thành tựu Bồ đềchừng nào địa ngục chưa trống không, tôi sẽ không thành Phật”. Mặc dù đây không phải là trích dẫn gốc từ Kinh Địa Tạng, nó là tinh túy từ những lời nguyện của Ngài, điều sau đó nằm trong nghi lễ cúng hương của Phật giáo Trung Hoa.

Kinh Địa Tạng Thập Luân cũng nói đến những lời nguyện căn bản của Địa Tạng. Nhờ sức mạnh của những lời nguyện của Ngài, hữu tình chúng sinh có thể được cứu khỏi mọi kiểu khổ đau, đặc biệt là chiến tranh, bệnh tật và nạn đói, điều sẽ xảy ra trong thời kỳ rất suy đồi và xấu ác. Kinh này nói rằng:

Bởi ác nghiệp quá khứ của hữu tình chúng sinh,

Họ phải trải qua chiến tranh, bệnh tật và nạn đói.

Bất kể họ bị những khổ đau này giày vò ở đâu,

Địa Tạng có thể giải thoát tất cả.

Bởi những cảm xúc phiền não – tham, sân và si – của họ, hữu tình chúng sinh tạo ra mọi kiểu ác nghiệp từ vô thủy. Khi ác nghiệp của họ chín muồi, họ phải trải qua kết quả là khổ đau chẳng thể chịu đựng. Ví dụ, nghiệp sát sinh dẫn đến chiến tranh và xung đột giữa các quốc gia, cũng như đánh nhauvà giết hại giữa con người. Bệnh tật và dịch bệnh sẽ xuất hiện tiếp theo trên khắp thế giới, chẳng hạn cúm gia cầm, cúm lợn và vi-rút Corona mà chúng ta gặp phải gần đây. Sau chiến tranh và bệnh tật, nạn đói có thể xảy ra ở mức độ nghiêm trọng. Ba điều này là đặc tính của thời suy đồi, điều được miêu tả nhiều trong các Kinh điển.

Mặc dù nhiều quốc gia đã rất phát triển và kinh tế của họ dần dần tăng trưởngác nghiệp to lớn, chẳng hạn sát sinhtích lũy từng ngày. Thật khó để biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo nhưng với tình hìnhnày, chúng ta cần cầu nguyện [Bồ TátĐịa Tạng cứu chúng ta khỏi mọi khủng hoảng bởi chiến tranh, nạn đói và bệnh tật này.

Kinh Địa Tạng Thập Luân tiếp tục rằng:

Chúng sinh cứ tái sinh trong năm cõi,

Bị những khổ đau khác nhau phiền nhiễu – giày vò.

Nhờ quy y và cung kính Địa Tạng,

Mọi khổ đau đều có thể bị tiêu trừ.

Điều này giải thích những lời nguyện của Địa Tạng từ một khía cạnh khác. Khi hữu tình chúng sinhchìm trong luân hồi và phải đầu thai trong hình tướng của chư thiêncon ngườisúc sinhngạ quỷ và địa ngục, họ bị những khổ đau khác nhau phiền nhiễu và giày vò, cả về thân lẫn tâm. Tuy nhiênchừng nào mà họ cung kínhquy y, dâng cúng dường và cầu nguyện đến Địa Tạng một cách chân thành, họ có thể được cứu thoát khỏi mọi khổ đau luân hồi này. Nhìn chung, bất kể khổ đau do tai ương tự nhiênvà nhân tạo gây ra trong cõi người này, hay bất kỳ khổ đau chẳng thể tưởng tượng nào trong năm cõi, nhờ nương tựa Bồ Tát Địa Tạng, tất cả chúng đều có thể bị trừ sạch. Là hành giả Đại thừachúng tathực sự cần tham gia vào thực hành Địa Tạng để xua tan đau khổ của hữu tình chúng sinh trong thời kỳ hiện nay.

Bên cạnh đó, trong Kinh Địa Tạng Thập LuânBồ Tát Địa Tạng tuyên bố rằng nhờ tụng Chân ngôn Địa Tạng, Ngài có thể kéo dài tuổi thọ của hữu tình chúng sinh, đem đến cho họ sức khỏe tốt và của cải, giúp họ duy trì giới luật thanh tịnh, hiểu nhiều Giáo Pháp một cách tốt hơn, phát triển trí tuệ và lòng bi, v.v. Có nhiều lợi lạc mà Địa Tạng có thể trao cho chúng ta nếu chúng ta thực hành Chân ngôn của Ngài. Bất kể chúng ta mong muốn những phước báu thế gian như vận maydanh tiếngan bình và sức khỏe, hay tiến bộ và thành tựu tâm linh như học hỏi tốt, giới thanh tịnh, định sâu và trí tuệ bất nhị, tất cả đều có thể được Bồ Tát Địa Tạng ban tặng nhờ những lời nguyện sâu sắc và bao la mà Ngài đã phát trong các đời quá khứ. Đây là nội dung chính mà chúng ta sẽ nghiên cứu trong Kinh này – Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh.

ĐIỀU GÌ ĐÃ XẢY RA Ở CÕI TRỜI TAM THẬP TAM

Chương Thứ Nhất

Thần Thông Trên Cõi Trời Tam Thập Tam

Tôi nghe như vầy. Một thời, Đức Phật đang ở cõi trời Tam Thập Tam thuyết Pháp cho thân mẫu. Khi ấy, từ vô lượng thế giới khắp mười phương, tất cả chư Phật và Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, [nhiều] chẳng thể diễn tả – chẳng thể diễn tả, tất cả đều đến hội họp ở đó. Chư vị tán thán cách mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã có thể hiển bày đại trí tuệ và thần thông chẳng thể nghĩ bàn để điều phục chúng sinh ngang bướng trong thời ngũ trược xấu ác, để chúng sinh hiểu được khổ đau và hạnh phúc. Mỗi vị đều sai thị giả đến vấn an Đức Thế Tôn.

Sau khi Đức Phật chào đời bảy ngày, mẹ của Ngài, Bà Maya, đã qua đời và tái sinh trong cõi trời Tam Thập Tam – Trayastrimsa. Trước khi Đức Phật nhập Niết Bàn, Ngài đã đến cõi trời Tam Thập Tam để thuyết Pháp cho mẹ. Sau khi hoàn thành giảng dạy, Đức Phật trở về cõi người vào ngày 22 tháng 9 lịch Tây Tạng, được kỷ niệm là Ngày Đức Phật Giáng Hạ. Vì thế, Kinh Địa Tạng được Đức Phật giảng tại cõi trời Tam Thập Tam vì mẹ để báo đáp lòng từ.

Trong tập hội những vị đến tham dự Pháp hội, có rất ít con người và đa số họ là chúng sinh cõi trời, chư long, thần và quỷ từ những thế giới khác nhau. Bởi không có sức mạnh diệu kỳ, con người bình phàm không thể đến cõi trờiĐặc biệt hơn, tất cả chư Phật và Đại Bồ Tát từ khắp mười phương đã hội họp trong cõi trời Tam Thập Tam để tham dự Pháp hội và cũng tán thán Phật Thích Ca Mâu Ni. Ở đây, “nhiều chẳng thể nghĩ bàn – chẳng thể nghĩ bàn” cho thấy rằng con số cũng quá lớn để miêu tả theo ngôn ngữ thông thường. Ngày nay, khi một Tulku vĩ đại sắp ban quán đỉnh hay một giáo lý đặc biệt, người dân từ khắp nơi trên thế giới thường cố gắng hết sức để tham dự; hãy tưởng tượng xem bao nhiêu vị có mặt khi Đức Phật sắp chuyển Pháp luân vì mẹ của Ngài.

Những Đại Nguyện Của Đức Phật

Tại sao tất cả Phật và Bồ Tát đều tán thán Phật Thích Ca Mâu Ni? Bởi Ngài là vị vĩ đại nhất, tuyệt vờinhất trong tất cả chư Phật khắp mười phương. Giống như hoa sen trắng, Ngài có thể hiển bày trí tuệvĩ đại, chẳng thể nghĩ bàn và thần thông để điều phục chúng sinh trong thời kỳ Ngũ Trược xấu ác. Như Kho Tàng Gia Trìnghi quỹ Phật Thích Ca Mâu Ni của Ju Mipham Rinpoche có nói:

Với lòng đại bi, chọn cõi xung độtsuy đồi này,

Ngài phát năm trăm lời thệ nguyện vô cùng bao la,

Như bông sen trắng vô cấu, nghe danh không thối chuyển,

Đấng Đạo Sư vô cùng từ ái: con đỉnh lễ Ngài!

Không giống đa số những vị Phật khác, Phật Thích Ca Mâu Ni đã phát năm trăm đại nguyện để làm lợi lạc hữu tình chúng sinh đặc biệt trong thời kỳ suy đồi và nhiễu nhương này. Đây là phẩm tính phi phàmnhất của Đức Phật, điều được ghi lại trong Kinh Bi Hoa cũng như trong Đại Tiểu Sử Của Phật Thích Ca Mâu Ni do Ju Mipham Rinpoche soạn. Trong một đời trước, khi Đức Phật được gọi là Bà-la-môn Hải Trần, khi thấy nhiều Bồ Tát lựa chọn sống trong cõi Phật thanh tịnh, Ngài quyết định chăm sóc những chúng sinh đáng thương trong thời kỳ Ngũ Trược xấu ác. Ngài nói rằng, “Tôi cần thuyết Giáo Pháp cao quý cho chúng sinh thời suy đồi. Tôi cần bền bỉ và dũng cảm. Tôi cần phát những lời nguyệnthiện lành như tiếng sư tử hống”. Như thế, vì lòng bi mẫn mạnh mẽ và đặc biệt, Ngài phát năm trăm đại nguyện để làm lợi lạc và dẫn dắt chúng sinh đáng thương như chúng ta trong thời kỳ suy đồi này.

Nếu Đức Phật không phát nguyện làm lợi lạc chúng ta trong thế giới nhiễu nhương này và nếu chư đạo sư truyền thừa không đến dẫn dắt chúng ta, thật khó có thể tưởng tượng xem mất bao lâu thì chúng ta mới gặp được Giáo Pháp và bắt đầu trên con đường giác ngộ. Có lẽ sẽ là mãi mãi. Vì thế, bất cứ khi nào chúng ta nghĩ về những phẩm tính thù thắng và lòng từ ái của Phật Thích Ca Mâu Ni và chư đạo sư truyền thừa như Phật của chúng tachúng ta cần thành tâm biết ơn chư vị.

Năm Suy Đồi [Ngũ Trược]

Về năm suy đồi, Luận Du Già [Sư] Địa có những giải thích rất độc đáo. Đầu tiên là sự suy đồi của thọ mạngCon người trong quá khứ có thể sống hàng trăm hay cho đến hàng vạn năm. Tuy nhiên, bởi sự suy giảm công đức, tuổi thọ của người hiện đại rất ngắn. Một người bình thường hiếm khi sống được trăm năm. Như tôi đã đề cập trước đó, sẽ thật tốt nếu tôi có thể sống đến sáu mươi hay bảy mươi tuổi, hay có lẽ điều đấy chỉ là mơ tưởng, bởi cuộc đời quá ngắn ngủi trong thời kỳ suy đồi này.

Thứ hai là sự suy đồi của hữu tình chúng sinh. Điều này nghĩa là con người thời nay có thiên hướngphạm phải ác hạnh khi mà phước báu của họ suy giảm. Họ có những tập khí tự nhiên hướng về bất thiện và khéo léo tiến hành ác hạnh, chẳng hạn sát sinhtrộm cắptà dâm và nói dối. Thế nhưng, về thiện hạnh, họ lại thấy thật khó như trèo ngọn núi lớn.

Thứ ba là sự suy đồi của cảm xúc phiền não. Điều này nghĩa là người ta có những cảm xúc mạnh mẽ ngày càng tăng thêm trong tâm, chẳng hạn tham, sân, si, kiêu ngạo và đố kỵ.

Thứ tư là sự suy đồi của tri kiến, nghĩa là hữu tình chúng sinh sở hữu ngày càng nhiều tà kiến. Tại sao ngày nay, người ta lại thích liệt kê lỗi của người khác? Lý do chính là những quan điểm tiêu cực của họ. Qua thấu kính thành kiến và chủ quan của họ, chẳng có ai và chẳng có gì hoàn hảo và thay vào đó, đều đầy lỗi. Ví dụ, khi đến một ngôi chùa, họ có thể chỉ tập trung vào vài lỗi nhỏ xíu và thờ ơ vẻ oai nghiêm. Hay khi tương tác với ai đó, họ chỉ thấy những lỗi lầm của người đó trong khi lờ đi những phẩm tính tốt lành. Họ thường hành xử như cảnh sát, người sẵn sàng nghi ngờ mọi người phạm tội. Một số cảnh sát, ngay cả khi không mặc đồng phục, vẫn có thể dễ dàng bị nhận ra bởi cách mà họ hành xử, luôn luôn nghi ngờ người khác làm sai. Khi chúng ta chỉ thấy điều xấu của kẻ khác chứ không phải thiện hạnh và phẩm tính của họ, đó là dấu hiệu cho thấy tri kiến của chúng ta đang suy đồi. Chư Phật, Bồ Tát và những vị cao quý sẽ luôn luôn tập trung vào mặt tốt của chúng sinh khác, thay vì chỉ trích lỗi lầm của họ.

Thứ năm là sự suy đồi của thời kỳ, điều liên quan đến môi trường nơi hữu tình chúng sinh sống. Sự suy đồi này chỉ ra rằng chiến tranh, nạn đói, bệnh tật và dịch bệnh sẽ thường xuyên xuất hiện trên thế giới và gây ra khổ đau ghê gớm cho mọi chúng sinh.

Chúng Ta Là Chúng Sinh Thời Suy Đồi

Phật Thích Ca Mâu Ni đã phát nguyện sẽ thức tỉnh chúng sinh nhận ra năm suy đồi này và rằng chúng ta đang chìm sâu trong chúng. Hành tinh của chúng ta trải qua chiến tranh, nạn đói và bệnh tật không ngừng nghỉ; tri kiến của chúng ta hiếm khi nhận ra sự thực chân thật và dễ dàng lạc lối bởi chủ nghĩavĩnh cửuchủ nghĩa hư vô hay bất kỳ tri kiến xấu xa và lạc lối nào khác; cảm xúc phiền não của chúng ta vô cùng mạnh mẽ; và chúng ta thường thấy thật khó để hành động thiện lành trong cuộc đời ngắn ngủi và chóng tàn của mình. Chỉ Phật Thích Ca Mâu Ni mới là vị có thể dẫn dắt và cứu chúng ta khỏi khổ đau bằng lòng đại từ và bi của Ngài. Vì thế, tất cả chư Phật và Bồ Tát từ khắp mười phương đều tán thán Phật Thích Ca Mâu Ni vì đại trí tuệ, phương tiện thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn và thần thôngmà Ngài hiển bày trong thời Ngũ Trược xấu ác này. Chư vị đều sai thị giả đến vấn an Đức Phật. Một số có thể nghĩ rằng Phật Thích Ca Mâu Ni sẽ chán việc đón nhận tất cả những sự chào hỏi này từ vô số chư Phật lần lượt. Mặc dù điều đó nằm ngoài sự hiểu của chúng ta, trong trạng thái chứng ngộ của Ngài, đây không phải điều gì đó không làm được hay buồn tẻ với Đức Thích Ca Mâu Ni.

Thực tế là hữu tình chúng sinh như chúng ta có thể khá ngang bướng và thậm chí chính Đức Phậtcũng gặp khó khăn khi điều phục chúng ta. Thậm chí sau khi Đức Phật đã chuyển Pháp luân ba lần ở thế giới này và nhiều đạo sư vĩ đại đã khuyến khích và dẫn dắt một cách không mệt mỏi và đầy tha thiết, chúng ta vẫn bị mắc kẹt trong phiền não tinh thần và chẳng thể đạt được bất kỳ sự tự do tâm linhnào. Đôi lúc, thậm chí nếu chúng ta xuất hiện là đã điều phục tâm hoang dã và hung bạo của mình một chút, chúng ta sẽ thoái lui về nơi chúng ta bắt đầu chỉ sau một thời gian ngắn. Điều này tương tự với ai đó đau khổ vì một căn bệnh tinh thần nhất định: đôi lúc họ trông có vẻ bình thường, nhưng chẳng bao lâu sau, căn bệnh tinh thần của họ quay lại và phát tác.

Trong thời kỳ suy đồi này và dưới sự kiểm soát của ác nghiệp và phiền não tinh thần, rất khó để có bất kỳ thiên hướng thiện lành, tri kiến đúng đắn và hành động đúng đắnChúng ta chỉ có thể nương tựa giáo lý của Đức Phật để hiểu cách tránh khổ đau và cách được hạnh phúc, và cuối cùng đạt giác ngộtrọn vẹn và giải thoát bản thân khỏi vô minh. Vì thế, Phật tử chân chính hiếm khi tôn kính Đức Phật chỉ vì niềm tin mù quáng. Nhờ sự nghiên cứu và thực hành một cách hệ thống, họ kết nối với trí tuệ chẳng thể nghĩ bàn và thần thông của Đức Phật. Họ biết rằng nhờ đưa giáo lý của Đức Phật vào thực hành, họ sẽ đạt được hạnh phúc và tự do rốt ráo.

Sau khi nếm cam lồ giáo lý của Đức Phậttrách nhiệm quan trọng nhất của chúng ta là cứu giúp và dẫn dắt chúng sinh ngang bướng trong thế giới nhiễu nhương này. Một số Pháp Sư đặc biệt miễn cưỡngcảm thấy rằng quá khó để điều phục tâm của những kẻ ương bướng. Vào những lúc như vậy, chúng ta cần nhớ về lòng từ ái và bi mẫn của Đức Phật và nỗ lực hết sức để noi theo bước chân Ngài trong việc giúp đỡ và làm lợi lạc hữu tình chúng sinh.

HỒI HƯỚNG
Cầu mong công đức từ tác phẩm này có thể góp phần
cho sự trường thọ của tất cả đạo sư vĩ đại,
cho sự phát triển của Phật Pháp và cho sự an lành của mọi hữu tình chúng sinh
Ở mức độ lớn nhất có thể!

 

Nguồn Anh ngữ: https://khenposodargye.org/books/ebooks/original-vows-of-ksitigarbha-bodhisattva-sutra/.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 306)
Vào ngày 30/12/2019, Rinpoche cùng với chư Tăng đã tiến hành hành trình một giờ từ Bồ Đề Đạo Tràng đến Nghĩa Địa Hàn Lâm.
(View: 392)
Năm 1971, Sangye Khandro, thiết tha được diện kiến Đức Dalai Lama, đã du hành bằng đường bộ trong năm tháng, cuối cùng đến được Dharamsala, Ấn Độ.
(View: 419)
Tôi được yêu cầu bình giảng về Thực Hành Senge Dongma Ngắn Gọn Của Kyabje Dudjom Rinpoche. Đây là một thực hành
(View: 500)
Những lợi lạc của kinh luân thường được nói đến trước kia; tuy nhiên, ngày nay, chúng sinh trong luân hồi thường chẳng thể thành tựu bất kỳ thực hành Pháp nào
(View: 768)
Pháp điển Đại Lạc (Mahāsukha) là một thí dụ cho thấy ảnh hưởng to lớn có dấu ấn quyết định của Bà La Môn giáo trong việc hành trì Mật giáo.
(View: 979)
Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ,
(View: 812)
Kính lễ đạo sư vinh quang, vị Thánh Tôn, Đấng viên thành mong ước thù thắng
(View: 1030)
Trong chuyến viếng thăm ngắn đến Hà Lan, Rinpoche được mời đến giảng dạy một tối về truyền thống Kim Cương thừa
(View: 1307)
(1) Kính lễ bậc Chúa Tể (dòng họ) Thích Ca. Thân Ngài đản sanh từ vô lượng công đức, tướng hảo thù thắng. Lời Ngài làm thỏa mãn hy vọng của vô lượng chúng sanh.
(View: 1415)
Trước khi chuyển di thần thức của người đã khuất, hãy bắt đầu bằng cách gọi tên họ số lần thích hợp.
(View: 1562)
Nhìn chung, điều được gọi là Tâm Yếu Bốn Phần chủ yếu bao gồm những giáo lý của Tôn giả Vimalamitra [Vô Cấu Hữu],
(View: 1494)
Khai thị của Kyabje Lama Zopa Rinpoche về tánh Không (shunyata) trong lễ quy y tại Trung Tâm Phật Giáo A Di Đà
(View: 1858)
Hãy đảm bảo rằng, trước khi tôi bắt đầu, các bạn phát khởi động cơ Bồ đề tâm thù thắng, tâm giác ngộ quý báu.
(View: 1919)
Tobgyal Rinpoche[1] được thỉnh cầu nói về các Bardo (những trạng thái chuyển tiếp), một nét đặc trưng độc đáo của giáo lý Phật giáo Tây Tạng.
(View: 1655)
Hãy phát khởi động lựchành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian,
(View: 3051)
Tôn giả Longchen Rabjam (1308-1363) sinh ra ở Yoru thuộc phần phía Đông của miền Trung Tây Tạng, gần Tu viện Samye vĩ đại mà Đạo Sư Liên Hoa Sinh xây dựng vào thế kỷ tám.
(View: 2337)
Có nhiều vị Tôn trên thế gian này và Phổ Ba Kim Cương là một trong số đó. Thực hành về Ngài được biết đến là “thực hành Phổ Ba Kim Cương để ...
(View: 4067)
Từ năm lên ba, Lama Drimed Rinpoche đã bày tỏ niềm tin và sự yêu thích đáng kinh ngạc với Phật Pháp.
(View: 2211)
Đức Shechen Rabjam thứ nhất – Tenpe Gyaltsen sinh năm 1650, năm Kim Dần của chu kỳ sáu mươi năm thứ mười một.
(View: 3099)
Geshe Ngawang Dhargyey (1921-1995) sinh ra ở vùng Trehor thuộc Kham, phía đông của Tây Tạng và học ở Tu viện Dhargyey địa phương cho đến khi 18 tuổi.
(View: 2858)
Này Tashi Lhamo[2] thành kính, nếu con muốn đạt giác ngộ, Hãy suy nghĩ xem thật khó khăn làm sao mới có được thân người tự dothuận duyên này.
(View: 2636)
Nhìn chung, chúng ta có thể nói rằng có hai phần trong truyền thừa Barom Kagyu: truyền thừa truyền miệng dài và truyền thừa ngắn của linh kiến sâu xa.
(View: 3481)
Khi cặp vợ chồng từ tộc Drenka ở Penyul trở thành cha mẹ tự hào của một người contrai vào năm 1127, họ đặt tên cậu bé theo một Kinh điển:
(View: 2723)
Ngài Drapa Ngonshe sinh vào năm Thủy Tý đực (tức năm 1012 Dương lịch) với cha là ông Zhangtag Karwa, người đã đặt tên Ngài là Taktsab.
(View: 2839)
Ngài Phakmodrupa Dorje Gyalpo sinh năm 1110 và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ nghèo khó ở phía Nam của Kham.
(View: 2386)
Từ quan điểm chiêm tinh, tháng Thân linh thiêng tương ứng với tháng 5 Âm lịch Tây Tạng. Ngài Terdak Lingpa[3], em trai[4] và Đức Dalai Lama thứ Năm ...
(View: 2198)
Theo các tiểu sử, Bà Mandarava là một công chúa thông tuệ, thiện lành và xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình hoàng gia ở Zahor,
(View: 2993)
Khandro Tare Lhamo sinh năm Thổ Dần 1938 trong thung lũng Bokyi Yumolung của vùng du mục Golok.
(View: 2018)
Sera Khandro Kunzang Dekyong Wangmo sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền lực về chính trị ở Lhasa.
(View: 3323)
Bà Jetsun Jampa Chokyi sinh vào ngày 30 tháng 12 năm Thủy Tuất (1922). Cha Bà, Sonam Tobgyal, xuất thân từ gia đình...
(View: 2335)
Dưới chân đạo sư, con đỉnh lễ. Nhớ về vô thường và cái chết, Đẩy lui bám chấp với đời này và trưởng dưỡng xả ly –
(View: 4317)
Đức Riwoche Jedrung thứ bảy – Jampa Jungne sinh năm 1856 trong gia đình Shol Danak của Tu viện Riwoche ở Kham,
(View: 2634)
Sau đây là ảnh hưởng từ hành vi của bạn tốt: Đồng hành cùng vị uyên bác giúp tăng trưởng sự thông tuệ. Đồng hành cùng vị bi mẫn giúp đánh thức Bồ đề tâm.
(View: 2420)
Thân người tự dothuận duyên này mà con đã có được. Cung cấp nền tảng để đạt được hỷ lạc vĩnh cửu.
(View: 2989)
Từng có một học trò, người đến gặp đạo sư để thỉnh cầu chỉ dẫn. Vị đạo sư sắp rời đi và đang vội nhưng Ngài vẫn chấp nhận lời thỉnh cầu.
(View: 5170)
Bản văn này được Orgyen Tobgyal Rinpoche mạnh mẽ khuyến khích với những vị mong muốn làm sâu sắc sự hiểu của họ về thực hành Sur[1].
(View: 2460)
Đầu tiên trong sáu ba la mật, bố thí ba la mật, không phải chỉ là về trao cho người nghèo.
(View: 3319)
Nhìn chung, những điểm then chốt để thấu triệt giáo lý của Phật là: Được thúc đẩy bởi sự xả ly và Bồ đề tâm, Tránh ác hạnhnỗ lực làm các thiện hạnh,
(View: 2103)
Đầu tiên, bởi thân người này – sự hỗ trợ cho các phẩm tính của giải thoát – khó được, chúng ta phải hướng các ý nghĩ rời khỏi những vấn đề của đời này.
(View: 3144)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(View: 3106)
Kính lễ đạo sư! Hãy quán chiếu về bốn chủ đề chuyển hóa, quy ytrưởng dưỡng từ, bi và Bồ đề tâm.
(View: 2554)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(View: 4184)
Khi bắt đầu thiền định, một trong những cách thức để tăng trưởng Bồ đề tâmlòng bi mẫnthực hành cho và nhận
(View: 3588)
Thực hành chính yếu mà thầy tiến hành trong tù ngục là Tong-len (cho và nhận). Khenpo Munsel[1] đã trao cho thầy nhiều chỉ dẫn khẩu truyền đặc biệt về Tong-len, điều không có trong bản văn.
(View: 2597)
Bardor Tulku Rinpoche sinh năm 1949 ở Kham, miền Đông Tây Tạng. Từ rất nhỏ, Ngài đã được Đức Gyalwang Karmapa thứ 16 công nhậnhóa hiện thứ ba của Terchen Barway Dorje[1].
(View: 2593)
Môn đồ Nyingma của Chân ngôn Bí mật nhấn mạnh vào Mật điển thực sự[2]. Họ theo đuổi tri kiến cao nhất và ham thích hành vi ổn định.
(View: 2918)
Con đỉnh lễ đạo sư và đấng bảo hộ Văn Thù Sư Lợi! Trước tiên, hãy quy y Tam Bảo,
(View: 2680)
Một vị khác đã nghe những chỉ dẫn về cách tiếp cận Dzogchen Đại Viên Mãn từ Adzom Drukpa Rinpoche Drodul Pawo Dorje
(View: 2351)
Bopa Tulku Dongak Tenpe Nyima là một đệ tử của Kunpal Rinpoche[2], vị giữ gìn truyền thống thanh tịnh của Jamgon Mipham Rinpoche
(View: 3019)
Tôi, Pema Tsewang Lhundrup, đã chào đời trong năm Kim Mùi của chu kỳ lịch thứ mười sáu (tức năm 1931).
(View: 2719)
Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết.
(View: 2609)
Đạo sư vô song, Phật Thế Tôn; Giáo Pháp linh thiêng, thù thắng và chẳng dối lừa;
(View: 3090)
Mọi người đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của quy y và vì lý do đó, thầy đã thiết kế thẻ quy y mới này.
(View: 4096)
Nếu thời gian của con trong khóa nhập thất được sử dụng tốt, con sẽ làm hài lòng chư Phật cùng những vị trưởng tử, giúp hoàn thành...
(View: 2703)
Điều này được gửi đến những vị đang trong khóa nhập thất ba năm tại Pháp.
(View: 3868)
Sau khi phát khởi Bồ đề tâm trong Mật thừa và thọ nhận một quán đỉnh, người ta bước qua cánh cửa dẫn vào thực hành Mật thừa.
(View: 3643)
Một số đạo hữu đã yêu cầu thầy giải thích ý nghĩa của đai thiền định. Nói chung, đai thiền định được sử dụng bởi Tổ Milarepa khi thực hành Sáu Du Già Của Naropa.
(View: 5967)
Phật Thế Tôn đã giảng dạy bản văn sau đây, điều đem đến lợi lạc trong thời kỳ đen tối.
(View: 3200)
Om Ah Hung. Hôm nay, thầy có được cơ hội tuyệt vời để chia sẻ đôi lời về giới quy y.
(View: 4431)
Terton Lerab Lingpa Trinle Thaye Tsal vĩ đại, tức Terton Sogyal, là hóa hiện về thân của Tổ Nanam Dorje Dudjom[1], hóa hiện về khẩu của Kim Cương Hợi Mẫuhóa hiện về ý của Đại Sư Liên Hoa Sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM