“Hai Thời Công Phu” Bắt Nguồn Từ Đâu?
Hai thời công phu còn gọi là triêu mộ khóa tụng (朝暮课诵) hoặc nhị khóa, tảo vãn khóa, đều áp dụng cho hàng xuất gia và tại gia mỗi ngày. Khởi nguyên của khóa tụng, là do các các nhà dịch kinh ở Tây Vực truyền đến. Ngoài việc phiên dịch kinh Phật, chú sớ Phật điển, còn dành thời khóa tụng niệm, nghiễm nhiên thâm thấm đến người con Phật Trung Thổ, bởi rất căn bản, rất phổ biến mà trở thành khóa tụng Phật mônlưu hành rộng khắp. Và người con Phật Việt Nam, xưa nay đều lấy khóa tụng này để tu trìmỗi ngày. Kinh Pháp Hoa, phẩm Công đức pháp sư sớm nêu việc thọ trì, đọc, tụng kinh Pháp Hoa sẽ được công đức vô ngần. Đường Huyền tông từng ra chiếu chỉ tam tạng pháp sư Bất Không tụng kinh Nhân Vương. Thời kỳ Phật giáo nguyên thủy, thời khóa của tăng lữhằng ngày, ngoài việc bưng bát đi khất thực ra, tự thân mình tiến hành tu tập. Phương pháptu hành có hai: một là học tập giáo lý, hai là tu tập thiền định.
Phật giáo Ấn Độ cổ đại, phụng hành nghi chế ‘tam khải’ (三启), phổ biến việc phúng tụngPhật sở hành tán của bồ-tát Mã Minh. Một là xướng tụng thơ văn xưng tán Phật bồ-tát theo Phật sở hành tán. Hai là chánh tụng kinh Phật. Ba là bộc bạch phát nguyện hồi hướng. Toàn bộ thời tu tập này là “tiết đoạn tam khai” (节段三开), nên gọi tam khải. Pháp sư Đạo An thời kỳ Đông Tấn, dựa theo Tăng chế Phật giáo Ấn Độ mà soạn định Tăng ni quỹ phạm, ảnh hưởng rất trọng yếu, tăng ni lấy lấy đó làm nền tảng công khóa. Đề xuất ba quy tắc. Một là nghi thức giảng kinh, đầu tiên thắp nhang cung thỉnh Phật, thánh nhân cũng là biểu đạt xưng tán, tán tụng đức Phật bồ-tát và giáo pháp của Phật-đà thù thắng, còn mời cả phàm nhân, ngồi đoan nghiêm trên giảng tòa rồi mới giảng giải kinh văn. Hai là tụng kinh tọa thiền, kinh hành, nhiễu Phật, sám hối, xướng tụng nghi thức lúc ăn cơm v.v... Tát-bà-đa bộ Thập tụng luật ghi: “Các tỉ-khưu dựa vào nhân duyên, tâm luôn an tĩnh, thích việc trước tác, tụng kinhliên tục, ngồi thiền hành đạo”. Ba là tụng giới mỗi nửa tháng, trong Bài tựa Ti-khưu đại giới(thâu trong Xuất Tam tạng ký tập quyển 11) của Đạo An đề cập việc bố-tát pháp, còn gọi bố-tát kiền độ, trở thành hiến chương Phật giáo, làm giềng mối pháp tắc, mô phạm cho tăng ni. Mã Tổ Đạo Nhất kiến tạo 48 ngôi chùa; Bách Trượng Hoài Hải chế định thanh quy.
Thông qua việc tụng niệm, lễ Phật, niệm Phật, trì chú, lễ sám ngõ hầu kỳ vọng có được công đức, phổ lợi pháp giới, cõi âm và người dương thế đều được lợi ích, nên khóa tụng còn gọi là công khóa. Pháp sư Hưng Từ người đầu tiên thuyết giảng về nội dung hai thời công phu, khiến cho học giả hiểu trọng điểm và tâm pháp của sự tu trì khóa tụng, dần dà làm bản khóa tụng lưu thông phổ biến lúc đó, rồi biên thành Nhị khóa hiệp giải lưu hành rất rộng. Sau còn trùng tân chỉnh lý, kết cấu nghĩa lý văn từ mạch lạc, đổi tên là Trùng đính Nhị khóa hiệp giải. Nội dung Nhị khóa hiệp giải hàm chứa giáo nghĩa thâm sâu của các kinh điển hiển giáo và mật giáo, Thiền tông và Tịnh độ tông, Tiểu thừa và Đại thừa, diễn bày tri thức thiên văn, địa lý, nêu bật lý luận vũ trụ quan như Tu-di sơn, tam thiên đại thiên thế giới. Một số trường Phật học tại Việt Nam, từng cơ cấu Nhị khóa hiệp giải trở thành một môn học. Nhị khóa hiệp giảighi: “Tăng nhân Phật giáo cần phải dùng hai thời khóa tụng sáng sớm và chiều tối làm pháp tắc, mô phạm thân thể và tinh thần của mình, nếu không thì có thể như ngựa tốt tháo khỏi dây cương, cuồng chạy loạn vội, nhầm vào đường khác”;[1]lời này chỉ định sách tấn người xuất gia, những cũng là khai thị người tại gia cần tỉnh giác, phá trừ hôn ám, một lòng hướng Phật. Theo Trung Quốc Phật giáo cận đại sử của trưởng lão Đông Sơ, Hưng Từ đạo hiệuQuán Nguyệt Thiên Thai, tông ngưỡng kính phụng Thiên Thai tông, giáo hoằng Tịnh độ, chuyên hoằng truyền giáo quán Thiên Thai, “Mỗi ngày tụng kinh niệm Phật, kiên trì không gián đoạn”. Đến Thượng Hải sầm uất đô hội kiến lập đạo tràng, nhưng như hoa sen sinh trong bùn lầy chẳng lấm bẩn. Cuộc đời cam thủ chí tiết đạm bạc, ngoài “một Tăng y ra, chẳng cất một vật”, “Văn tự tuyên dương, không bằng trưởng lão Ấn Thuận, nhưng nghiêm trì giới luật, chân thật niệm Phật, không ham lợi dưỡng”. Hưng Từ dự tri thời chí, năm 1950, thoái cư Tam quan đường, ẩn cư tĩnh tu niệm Phật, đến ngày 2 tháng 6, biết chính xác giờ mình chết, gội đầu rửa mình, đắp y, ngồi kiết-già hướng về phía tây, an tường mà qua đời trong tiếng niệm Phật, 50 Tăng lạp.
Triêu khóa (朝课) là công khóa sáng sớm, canh năm, bắt đầu cho một ngày mới, sớm tinh sương vạn cảnh im lìm, nội tâm an tĩnh, lò hương nhen nhúm xông pháp giới, hương khói bay là đà trên hư không kết nên mây cát tường, tụng niệm chú Lăng Nghiêm với lời kinh trầm hùng, nương kinh văn thần chú để trừ khử vọng tưởng, tâm cảnh thanh tĩnh. Cao tăngLâm tế tông Ngọc Lâm quốc sư (1614-1675) mô tả thời công phu sáng sớm: vạn cảnh chưa động, tâm dường như an tĩnh, văn nhã, chỉnh y đứng thẳng, đồng âm tụng niệm chú Lăng Nghiêm. Ngọc Lâm còn giải thích diệu dụng của Thập tiểu chú: Như ý bảo luân vương chú, làm tâm phiền não đã lắng, ngộ đồng thể đại từ, chuyển như ý; Tiêu tai cát tường chú, liền được tự tại; Công đức bảo sơn chú, làm tâm hiện tốt lành, cư trú pháp tánh sơn được công đức bảo; Quán-âm linh cảm chú, làm thâm khế nhĩ căn pháp giới Quán-âm, linh cảm vô ngần, như trăng rọi mà còn lắng; gia trì Đại bi thần chú, tẩy sạch tâm phiền não dơ bẩn v.v... nhưng lo sợ người mới tu trì hay chấp trước cảnh giới thần diệu, gây nên chướng ngại trên lộ tuyến giải thoát cho nên tăng thêm Tâm kinh. Mỗi tiểu chú trong Thập tiểu chú đều rút tỉa từ Đại thừa kinh, như Thất Phật diệt tôi chân ngôn rút ra từ Đà-la-ni Tạp Tập, hoặc Đại cát tường Thiên nữ chú rút ra từ kinh Kim Quang Minh, riêng Quán-âm linh cảm chân ngônkhông có trong bản kinh, mà câu đầu lại là Lục tự đại minh chân ngôn. Bên cạnh đó, còn cầu nguyện quốc gia thái bình, đời sống nhân dân an định, thí chủ được lợi ích, tự viện thanh tịnh.
Mộ khóa (暮课) là công khóa chiều tối, kinh qua việc tụng niệm kinh Di-đà, khiến người thấu tỏ cảnh giới Cực lạc thần diệu, cầu sanh tịnh độ. Tổ sư Ấn Quang nhấn mạnh: “Tuy pháp môn tu trì, các dạng các kiểu chẳng giống nhau, nhưng tụng kinh, trì chú, lễ bái, sám hối, siêu tiến cô hồn, cầu sanh tịnh độ, quả là bản nguyên. Cho nên cổ đức xuyên qua các kinh văn và chú văn của những tông phái nào đó, trong các pháp môn, chọn làm cang yếu, chế định làm công khóa hai thời sáng sớm và chiều tối, khiến các hành nhân dựa đây tu trì, từ đó nghiệp chướng tiêu trừ, phước đức và trí tuệ tăng trưởng, đền đáp bốn ân nặng, siêu độ cô hồn....... Do đó đạo tràng hoặc là Thiền tông, Mật tông, Luật tông, Tịnh độ tông thiên hạ, đều tin phụng làm pháp lệnh, chương trình quy định”. Qua lời sách tấn của Ấn tổ, chúng ta thấy được nếu chuyên tâm nhất chí tu trì liên tục, sẽ được các công đức bất khả tư nghị, chân lợi ích, chân cảm ứng.
Ngoài hai công khóa chính, còn có khóa phụ là ngọ cúng và Mông sơn thí thực.
Ngọ cúng, hoặc cúng Phật, là cúng dường cơm trước Phật, bồ-tát. Bài kệ cúng Phật “Giới định chân hương” (戒定真香)[2]của thiền sư Trung Phong Minh Bản (1263~1323, thế nhân tôn xưng ngài là Giang Nam cổ Phật) sáng tác rất hay. Bài này dùng để xướng tụng trước đức Phật bồ-tát, đặc biệt ngân nga tán tụng trước đại hùng bảo điện trong trai đàn chẩn tếcô hồn. Toàn bài kệ là: “Giới định chân hương, phần khởi xung thiên thượng. Đệ tử kiền thành, nhiệt tại kim lô phóng. Khoảnh khắc nhân huân. Tức biến mãn thập phương. Tích nhất Gia-du, miễn nạn tiêu tai chướng. Nam mô hương cúng dường bồ-tát ma-ha-tát”.
“Giới định chân hương” còn gọi là giới định tuệ chân hương. Từ trì giới sinh ra thiền định, từ thiền định phát ra trí tuệ, đó cũng là chân hương. Loại hương này vĩnh viễn bất diệt. Kinh Lăng Nghiêm nói, đức Thế Tôn dạy A-nan: “Nhiếp tâm là giới, nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ, ấy cũng gọi tam vô lậu học”. Tu hành tam vô lậu học để được tâm thanh tịnh, cúng hương là hương chân chánh, hương tối thắng tối diệu.
“Phần khởi xung thiên thượng” là thắp chân hương xông khắp mười phương. Thiên thượngchỉ đại biểu một phương, còn oai đức của chân hương vô lượng mà xông ngút mười phương. Kinh Giới Hương nói: “Tất cả các hoa quả trên thế gian, cho đến trầm hương và chiên đàn hương, long phúc hương, hương v.v... các thứ hương này không hoàn toàn nghe biết, chỉ nghe thấy giới hương phổ biến tất cả”. Hương trì giới là hương hoa cao diệu phảng phất khắp thế gian, gió thổi ngược hay thuận đều nghe biết hết.
“Nhiệt tại kim lô phóng”, ‘nhiệt’ (熱) hoặc đọc là nhạ’ (若), ý nghĩa là thắp cháy. Kim lô (金鑪) là lò hương, thắp cháy giới định chân hương trong lò hương, sau đó lò hương toát ra giới định chân hương, cúng dường các đức Phật bồ-tát, khiến mọi chúng sanh lợi ích. Trong bài kệ Lư hương tán (Việt dịch là: Khen ngợi công đức của hương), mà mở đầu các buổi tụng kinh cần xướng đọc. Gồm có sáu câu: “Lư hương sạ nhiệt (Hương trong lò mới đốt). Pháp giới mông huân (Các thế giới trong mười phương đều được xông). Chư Phật hải hội tất dao văn (Rất nhiều Phật trong pháp hội lớn như biển đều nghe xa xa). Tùy xứ cát tường vân(Nơi nơi tùy ý kết thành mây cát tường). Thành ý phương ân (tâm thành vừa mới khẩn thiết). Chư Phật hiện toàn thân (Rất nhiều Phật hiện ra toàn thân). Nam mô hương vân cái bồ-tát ma-ha-tát (Quy y đại bồ-tát để hương thơm trong lò bốc lên hư không kết thành bảo cái như mây). Bài Lư hương tán này thuộc trong kinh Hiền Ngu. Vì sao phải thắp nhang trước khi tụng kinh? Cũng nhằm lễ thỉnh các đức Phật bồ-tát giáng lâm đạo tràng. Thời kỳ đức Phật, có một vị a-la-hán — thánh tăng Phú-lâu-na sau khi chứng tứ quả, trở về nước cố quốc — nước Phóng Bát giảng thuyết Phật lý cho cha và anh, mẹ và thân quyến, mọi người đều sinh tâm hoan hỷ, nhưng muốn trông thấy đức Phật. Nhưng Phật lại ở nước Xá-vệ cách rất xa, họ bèn lên trên lầu thiết đàn, thắp hương rất thơm, hướng về nước nước Xá-vệ mà diêu bái Phật, nhờ tấc dạ chí thành, hương thơm bay đến trên đỉnh đầu Phật, kết thành một đóa hương vân cái, đức Phật cảm biết như thế bèn vận dụng thần thông bay đến nước Phóng Bát, an trú trên hư không mà thuyết pháp cho tôn giả và gia đình.
“Khoảnh khắc nhân huân”, khoảnh khắc là chốc lát, sát-na; nhân huân là khói mây dăng phủ, hình dung mùi hương dày đặc bất tuyệt.
“Tức biến mãn thập phương”, là có thể phổ biến khắp mười phương. Kinh Giới Hương nói, tôn giả A-nan hỏi đức Phật: “Con thấy có ba loại hương, gọi là căn hương, hoa hương, tử hương, ba loại hương này phổ biến khắp tất cả nơi. Có gió cũng nghe. Không gió cũng nghe, là hương gì? Đức Phật bảo: “Nếu có cận sự nam, cận sự nữ ở thế gian, trì Phật tịnh giới làm các thiện pháp, ấy là không sát sanh, không trộm, không dâm, không vọng ngữ và không uống rượu. Thì cận sự nam, cận sự nữ, giới hương như thể nghe khắp mười phương, mà được mười phương cảm ứng đều khen ngợi”.
“Tích nhất Gia-du, miễn nạn tiêu tai chướng”, “Gia-du-đà-la xưa kia” và “Miễn nạn tiêu taichướng” lại liên quan thế nào? Đức Phật có ý định xuất gia thì phụ vương nói phải lưu lại cho một đứa con mới cho xuất gia, rồi Gia-du mang thai. Nhưng đức Phật xuất gia sáu năm, Gia-du mới sinh La-hầu-la, việc lạ lùng này làm cho cho mọi người nghi kị, thiên hạ dèm pha. Lúc ấy Gia-du phát nguyện: Nếu la-hầu-la không phải con của đức Phật thì nhảy vào hầm lửa, bị lửa thiêu chết, nhưng khi mẹ bồng con nhảy vào hầm lửa, quả nhiên đều an nhiên vô sự, từ đó mọi người mới tin sự thật, mọi xầm xì đều dứt bặt. Cũng là nói sự cảm ứng của giới định chân hương. Gia-du nhờ sự trì giới mà tu tập đạt được tâm thanh tịnh, miễn trừ ai ương hạn ách.
Trong Phật điện, nên cúng dường mười loại phẩm vật: Hương, hoa, đèn, nước trong, trái cây, trà, cơm và y phục, bảo châu. Hương tượng trưng cho giới luật. Hoa tượng trưng cho nhân, được tướng mạo đoan nghiêm. Đèn tượng trưng cho ánh sáng, được trí tuệ. Nước trong tượng trưng cho tâm thanh tịnh. Trái cây tượng trưng cho quả báo. Bảo châu tượng trưng cho tâm ban bố. Trà, cơm và y phục tượng trưng cho cúng dường Tăng bảo. Ngọ cúng còn gọi là ngọ trai, ngọ san, chỉ cho hàng xuất gia thọ trai.
Trong các tự viện, ban chiều hay tụng niệm Mông sơn thí thực. Thời kỳ Phật-đà đã có hoạt động thí thực; nguyên do từ việc tôn giả A-nan tập định trong rừng, nửa canh ba thấy ngạ quỷ diện nhiên lửa cháy khắp thân, rất đau đớn, nói A-nan ba ngày sau sẽ đọa lạc như mình. A-nan thưa Phật, Phật dạy tụng đà-la-ni chú, tuyên thuyết biến thực pháp, tụng biến thực chân ngôn, biến thức ăn đồ uống ít thành nhiều, từ bảy hóa bảy, cho đến biến thành vô lượng, tụng cam lồ chú, nước biến cam lồ. Một số bản kinh chia bốn khoảng thời gian của bốn cõi ăn uống khác nhau. Kinh Tì-la Tam Muội nói: “Vua Tần-bà-sa-la hỏi: Vì sao Phật ăn trung ngọ? Đáp: Sáng là lúc chư thiên ăn, ngọ là lúc các đức Phật trong ba đời ăn, chiều là lúc súc sanh ăn, đêm là lúc quỷ thần ăn, nên đầu tiên cần dứt nhân vào sáu cõi, khiến đồng các đức Phật trong ba đời”. Trong Sa-di luật nghi yếu lược của Đại sư Vân Thê Châu Hoằngdựa vào lời kinh này, làm cước chú cho việc giải thích giới thứ 9 (không ăn quá ngọ) trong 10 giới của sa-di. Còn dẫn chứng xưa có cao tăng (chỉ cho thiền sư Pháp Tuệ chùa Trụ Nghiệp), nghe tỉ-khưu ở phòng bên cạnh, hậu ngọ nhen bếp, bèn khái cảm Phật giáo sắp suy tàn, bất chợt thương tâm khóc rơi nước mắt. Luật Tăng Thư Ngọc tiến thêm một bước chú giải, trong Sa-di luật nghi yếu lược thuật nghĩa của Thư Ngọc, nêu lên trạng huống ngạ quỷ nghe tiếng chén và bát thì trong họng lửa bốc cháy. Do đó Phật vì tâm đại từ bi, cho đệ tử ăn quá ngọ nhưng lúc ăn cần tịch tĩnh, không để chén và bát kêu ra tiếng, thậm chí ăn tiền ngọ cũng phải tịch tĩnh, “lấy ngọ thực làm pháp thực”, “Nay phát tâm thọ giới, chí nguyệnthành Phật”, nếu muốn thành Phật, cần đầu tiện đoạn trừ nhân vào sáu cõi. Hậu ngọ là lúc ngạ quỷ ăn, khi nghe tiếng chén và bát kêu, làm cho các ngạ quỷ trong họng bốc lửa, dành giựt các thức ăn, khiến chúng đói khổ. Vì tiếng kêu của chén và bát mà làm cho loài ngạ quỷtạo nghiệp, thọ nghiệp, há nhẫn tâm để chén và bát kêu sao? Thư Ngọc định nghĩa về ngạ quỷ, đói khát bắt ép thì gọi là ngạ, mong cầu đạt được gọi là quỷ. Chúng sanh đọa trong cõi ngạ quỷ, họng nhỏ như cây kim, bụng to như cái trống. Còn phân định về thần, thần có đại lực có thể làm chuyển động dãy núi, lấp bằng biển cả. Thần có tiểu lực, có thể ẩn mật và hiển hiện biến hóa.
Tân tục cao Tăng truyện quyển 29 ghi, Thư Ngọc (1645-1721) đạo hiệu Phật Am, một luật Tăng chuyên nghiên cứu luật học. Từ nhỏ thông thạo Nho học, ngày nọ nghe vị Tăng tụng kinh Hoa Nghiêm, phẩm Hạnh nguyện Phổ Hiền bèn manh nha chí nguyện xuất gia. Năm 22 tuổi, thọ cụ túc giới với luật sư Kiến Nguyệt Độc Thể tại chùa Bảo Xương trên núi Bảo Hoa. Năm 1683, Thư Ngọc và đệ tam tổ Thiên Hoa phái Luật tông Định Am Đức Cơ lâm đàn diễn giới tại chùa Chiêu Khánh, mà chấn hưng sự tu học giới luật. Đến mùa xuân và mùa đôngmỗi năm thì hoằng truyền giới luật, duy trì suốt 38 năm như thế, tăng lữ và tục nhân vân tậprất đông, giới tử thọ cụ túc giới đến hơn vạn. Trước thuật Phạm Võng kinh bồ-tát giới sơ tân8 quyển, Yết-ma nghi thức 2 quyển v.v... Tuổi già bị bệnh, ngồi nhập thiền định mà viên tịch, hưởng thọ 77 tuổi. Thiền giả cư sĩ Bàng Long Uẩn nổi tiếng, từng sáng tác bài thơ nói đến việc cầu thỉnh thọ giới: “Mười phương cùng vân tập, mỗi người học vô vi, đó là tuyển Phật trường, tâm không cập đệ quy”. Tuyển Phật trường là trường khảo thí tuyển Phật, nơi giới tửkhẩu cầu thọ giới, hun đúc Tăng cách, học tập vô vi pháp (chân lý vĩnh hằng bất biến), nên tuyển Phật trường còn gọi là thiền đường.[3]Thiền sư Đan Hà vốn là tú tài nho sinh, trên đường thi làm quan, gặp hành cước Tăng, lần lượt cùng ngồi uống trà, vị Tăng du phươngnày hỏi: “Tú tài đến nơi nào? Đáp: Cầu tuyển quan. Hỏi: Tiếc thay lắm công phu, sao không tuyển Phật? Đáp: Phật đang ở nơi nào? Hành cước Tăng đứng lên nắm chén trà nói: Cái gì? Đáp: Chưa lường ý chỉ cao. Nói: Nếu thế, Giang Tây Mã Tổ hiện nay trụ thể thuyết pháp, người ngộ đạo không thể nhớ xuể, đó đúng là tuyển Phật.
Trong A-tì-đạt-ma Thuận chánh lý luận của tôn giả Chúng Hiền, quyển 31 chia ra 3 loại ngạ quỷ. Một là vô tài ngạ quỷ, bao gồm ngạ quỷ miệng lửa, ngạ quỷ bụng to như núi, họng nhỏ như cây kim, ngạ quỷ trong miệng hay bốc ra mùi hôi thúi, không ăn uống, luôn kêu gào đói khát đau đớn, nếu ngẫu nhiên gặp đồ ăn, lúc ăn lại hóa thành lửa đỏ, không thể ăn vào họng. Hai là sa tài ngạ quỷ, bao gồm ngạ quỷ lông cứng nhọn hoắc, ngạ quỷ lông hôi, ngạ quỷ cuống họng há miệng to, chuyên ăn mủ, máu. Ba là đa tài ngạ quỷ, bao gồm ngạ quỷhưởng dùng vật cúng trong lễ cúng bái, ngạ quỷ chờ người khạc nhổ, vật tàn dư mà ăn, ngạ quỷ có sức mạnh như dạ xoa, càn thát bà, hoặc gá nơi miếu thờ, rừng cây, sơn cốc.
Thời Đường có hai vị tăng nhân Mật giáo là: Kim Cang Trí và Bất Không, lấy nhị chú: biến thực và biến thủy chân ngôn làm chính, tăng thêm các văn từ trong kinh điển hiển giáo và mật giáo, rồi lấy tên Diệm khẩu nghi quỹ, lưu truyền rất rộng. Đến thời Tống, có pháp sư Bất Động, chống tích trượng rảo bước trên Mông sơn. Bất Động tu đạo trên đỉnh núi này, nên thế nhân gọi là pháp sư Cam Lồ. Mông sơn có năm đỉnh núi, đỉnh núi đầu tiên rất cao, gọi là Thượng thanh phong, đỉnh núi này sản sinh cam lồ. Bất Động vì phổ tế u linh, mà thâu tập du-già diệm khẩu và các bộ Mật tông, lấy biến thực và biến thủy chân ngôn làm chính, tập thành Mông sơn thí thực nghi. Thời khóa ban chiều trong chùa cũng lấy Mông sơn thí thựcnghi làm thiền môn nhật tụng. Thí thực Mông sơn có hai loại: đại Mông sơn và tiểu Mông sơn. Thí thực phổ tế u linh, gọi là Phóng tiểu Mông sơn. Mông sơn thí thực nghi quỹ của pháp sư Hưng Từ, cực lực đề xướng, và khai thị cho quẩn linh trôi lăn trong sáu cõi, gọi là Đại Mông sơn thí thực.
[1] (朝暮不轨, 犹良马之无缰)
[2]“Giới định chân hương, phần khởi xung thiên thượng, đệ tử kiền thành, nhiệt tại kim lôphóng. Khoảnh khắc nhân huân, tức biến mãn thập phương. Tích nhật Da-du, miễn nan tiêu tai chướng. Nam mô hương vân cái bồ-tát ma-ha-tát”
[3] Tham khảo Kinh Kim Cang nói gì của Nam Hoài Cẩn, phần Trang Nghiêm tịnh độ phẩm 10
- Tag :
- Thích Trung Nghĩa