Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Thập Hạnh

22 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 15828)
04. Thập Hạnh

Tây Tạng Tự - Bình Dương

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG
Người dịch: Thubten Osall Lama - Nhẫn Tế Thiền Sư


PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG

CHƯƠNG IV: KHAI THỊ CÁC ĐỊA VỊ TU CHỨNG

Mục 2: An Lập Các Thánh Vị


IV. THẬP HẠNH

Kinh : “Anan, người thiện nam đó đã thành Phật Tử, đầy đủ Diệu Đức của vô lượng Như Lai, tùy thuận mười phương, gọi là Hoan Hỷ Hạnh.

Thông rằng : Diệu Đức của Như Lai là “Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên”. Ở chốn trần ai mà chẳng nhiễm nên gọi là Diệu. Đã thành con Phật đầy đủ Diệu Đức. Can gậy tùy thân, gặp trường sân khấu thì làm trò múa men, nên có thể tùy thuận với mười phương, lấy cái vui thích của thiền mà tự vui chơi. Hoan Hỷ Hạnh này tùy thuận với chúng sanh, phương tiệntiếp dẫn chính là muốn hiển phát Diệu Đức của Như Lai vậy. Còn cứ một bề nương bám thì Diệu sao được?

Tổ Triệu Châu trên tám mươi tuổi mà vẫn còn hành cước. Một hôm đến chỗ Ngài Vân Cư.
Tổ Cư nói : “Già cả lắm rồi sao chẳng tìm cái chỗ trụ ?”
Tổ Châu nói : “Chỗ nào trụ được ?”
Tổ Cư nói : “Trước núi có cái nền chùa xưa”.
Tổ Châu nói : “Hòa Thượng tự trụ lấy !”
Sau lại đến Ngài Thù Du. 
Tổ Thù Du nói : “Già cả lắm rồi sao chẳng tìm cái chỗ trụ ?”
Tổ Châu nói : “Hướng về chỗ nào trụ ?”
Tổ Du : “Già cả lắm rồi mà chỗ trụ cũng chẳng biết !”
Tổ Châu : “Ba mươi năm giỡn đùa cỡi ngựa, hôm nay lại bị lừa đá !”
Ngài Vân Cư Tích nói : “Chỗ nào là chỗ Triệu Châu bị lừa đá ?”
Sau này, có vị tăng từ giã Tổ Triệu Châu
Tổ hỏi : “Đi đâu vậy ?”
Vị tăng đáp : “Kẻ học nhơn định đến phương Nam học Phật Pháp”.
Tổ Châu dựng đứng cây phất tử, nói : “Chỗ có Phật chẳng được trụ, chỗ không Phật chạy mau qua! Ngoài ba ngàn dặm gặp người, không được đề ra sai quấy !”
Vị tăng nói : “Như vậy thì không đi ư ?”
Tổ Châu nói : “Hái bông Dương (Liễu), hái bông Dương !”

Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng : “Đắm không, vướng vết; tay chạm mũi đâm đều chưa phải là chỗ nạp tăng tựu đến. Liền phải: chớ vào hàng quán của người, chớ ngồi giường phản ai khác. CHÁNH chẳng lập huyền, THIÊN chẳng nương vật, mới có thể nắm-ở, buông-đi, có phần tự tại !
Chỉ có Triệu Châu đầy đủ Diệu Đức của vô lượng Như Lai, có phần tự do nên thường hành Hoan Hỷ Hạnh, tuy già mà chẳng mỏi mệt.

Kinh : “Khéo hay lợi ích cho hết thảy chúng sanh, gọi là Nhiêu Ích Hạnh.

Thông rằng : Sự lợi ích cho chúng sanh tuôn ra từ Tâm Từ Bi. Có Tâm Từ Bi thì có khả năng ấy, mà lại khéo làm được. Trí đã soi khắp, Dụng cũng viên dung. Lòng Từ cứu độ chúng sanh mà không có ý. Chẳng kể là tài thí hay pháp thí, chỉ cốt quy về sự lợi ích cho chúng sanh hữu tình mà thôi, nên gọi là Nhiêu Ích Hạnh.

Thiền sư Ngưu Đầu Dung đã được Đức Tứ Tổ thọ ký, từ đó hoằng pháp rất thịnh hành. Vào niên hiệu Vĩnh Huy đời Đường, đồ chúng thiếu lương thực, Ngài sang xứ Đơn Dương quyên gạo, cách núi tám mươi dặm. Tự mình vác bao gạo một thạch tám đấu, sáng đi chiều về cung cấp cho ba trăm vị tăng hai bữa ăn mỗi ngày. Đây thật là hay hành Nhiêu Ích Hạnh vậy.

Kinh : “Tự giác, giác tha, được không-chống-trái, gọi là Vô Sân Hận Hạnh.

Thông rằng : Tự giác để giác tha. Có Trí thế gian, có Trí xuất thế gian, có Trí xuất thế gian thượng thượng để đem ra nói cho người, được không có sự chống trái, như đá thả xuống nước. Đó là chỗ nói “Gặp rồi nối truyền, cùng đẹp lòng để hiểu rõ”, nên không có sân hận. Cái sân hận này chẳng phải tình phàm có thể so sánh. Hận là hận tất cả chúng sanh đều có Trí Huệ, Đức Tướng của Như Lai mà chẳng tự biết; mà sân là giận rằng ta chưa độ thoát cho hết.
Đức Lục Tổ có đoạn kệ :

“Muốn định hóa độ người
Cần tự có phương tiện
Chớ khiến người có nghi
Tức là Tự Tánh hiện
Phật pháp tại thế gian
Chẳng lìa thế gian Giác
Lìa thế kiếm Bồ Đề
Khác nào tìm sừng thỏ
Chánh Kiếnxuất thế
Tà Kiếnthế gian
Tà, Chánh dẹp hết ráo
Bồ Đề Tánh rõ ràng”.

Thế nên dùng Trí Thế Giangiác tha đó là cái nhân Trời, Người; dùng Trí Xuất Thế Giangiác tha là nhân Bồ Đề. Độc chỉ cái Vô Thượng Bồ Đề, cả hai đều phá bỏ mới gọi là Thượng Thượng Trí. Dùng cái Trí ấy mà giác tha là cái nhân Đẳng Giác, Diệu Giác vậy.

Kinh : “Theo loài mà sanh ra, cùng tột vị lai, ba đời đều bình đẳng, mười phương đều thông suốt gọi là Vô Tận Hạnh.

Thông rằng : Theo loài mà sanh ra, được Ý Sanh Thân, tùy theo loài mà dạy dỗ, dọc cùng ba đời, ngang khắp mười phương, không đâu chẳng phải là chỗ tự giác, giác tha. Đó là chỗ nói “Hư không có tận, nguyện ta vô cùng” vậy.

Vào đời Thái Bình, niên hiệu Hưng Quốc, ở Kiện Dương có nhà sư tên Biện Thông dạo chơi vùng núi Ngũ Đài. Vị Thượng Tọa chùa này đã già, bị trong chúng khinh rẻ, riêng một mình Biện Thông vẫn cung kính hầu hạ. Khi Biện Thông sắp về kinh sư, vị tăng già đó đưa cho ông một bức thơ, bảo tìm Bộc Hạ ở phía Bắc thành đưa giùm. 

Giã từ đi, Ông Thông lén mở ra xem thì không viết gì khác, chỉ có mấy chữ : “Độ chúng sanh xong, gấp gấp trở lại, nếu gượng ở lại sợ rằng tạo nghiệp”. Biện Thông rất kinh hoảng, vội dán thơ lại. 

Khi đến xứ Quảng Tế, bên bờ sông nghe trẻ kêu Bộc Hạ. 

Ông hỏi : “Bộc Hạ ở đâu ?”
Đứa bé chỉ con heo lớn nằm dưới chân bức tường phía Tây ngã tư đường, cổ có mang cái vòng vàng. Biện Thông hỏi : “Bác đồ tể là ai ?”
Đáp : “Nhà Triệu Sinh”.
Hỏi : “Sao tên là Bộc Hạ?”
Đáp : “Vì chỉ ăn bạc hà nên trẻ trong xóm gọi thế. Mỗi ngày tôi làm thịt cả trăm, ngàn con, heo chạy tứ tán khó bắt, mà hễ con heo này dẫn tới thì ngoan ngỗn chịu chết, nên nuôi đã mười lăm năm nay !”

Ông bèn lấy thơ đưa cho nó, con heo ăn liền rồi bỗng đứng lên như người mà chết.

Do đây mà xét, thì Ứng Thân phân hóa theo loài làm sao mà suy lường được? Giới hạn nào cho cùng? Chúng sanh vô tận, sự độ thoát cũng vô tận, nên gọi là Vô Tận Hạnh.

Kinh : “Tất cả hợp thành đồng nhất, thảy thảy pháp môn đều không sai lầm, gọi là Ly Si Loạn Hạnh.

Thông rằng: Đã đầy đủ Diệu Đức của vô lượng Như Lai, tự giác, giác tha ích lợi cho đời vô tận, nào có đến nỗi si loạn sai lầm ư ? Bởi thảy thảy pháp môn thì có đủ thảy thảy tam muội, nên chẳng đủ con mắt pháp phân biệt thì chẳng thể phân biện. Nay tất cả đều hòa đồng mà dung hội, được sự không sai lầm. Như Khổng Tử đại thành Tập, Thanh, Nhiệm, Hòa mà đúng thời đưa ra, thì vốn lấy cái Trí làm đầu. Trí ví như sự khéo giỏi, chẳng phải là sự gắng sức có thể so sánh, nên không có si loạn, ở ngay sau Vô Tận Hạnh vậy.

Tướng Quốc Bùi Hưu đề tựa cho cuốn thiền Nguyên Chư Thuyên Đô Tập của Ngài Khuê Phong Tông Mật rằng: “Những môn hạ trong các tông đều có người thấu đạt, nhưng mỗi tông đều theo chỗ tu tập của mình nên dung thông thì ít mà hạn cục thì nhiều, nên mấy mươi năm nay pháp Tổ càng băng hoại. Lấy chỗ học được làm cửa nẻo, mỗi mỗi tự khai trương, lấy kinh luận làm giáo mác công kích lẫn nhau. Tình theo cung tên mà biến cải. Pháp vào nhân ngãthấp cao. Phải quấy lăng xăng chẳng thể nào phân biện. Nếu các tông pháitranh luận nhau thì người hậu học càng tăng thêm bệnh phiền não, nào có lợi ích chi đâu !

“Đại sư Khuê Phong đã lâu than rằng : “Tôi ở thời này không thể làm thinh vậy !” 

“Ngài bèn lấy ba thứ giáo nghĩa của Như Lai để ấn chứng cho ba loại pháp môn của thiền tông. Nung chảy thau, mâm, vòng thành độc một thứ vàng ròng, khuấy tô lạc, đề hồ thành một vị. Nắm giềng lưới đưa lên thì mọi chỗ đều thuận theo. Căn cứ vào yếu lý dung hội thì người đến cùng theo. Còn sợ hàng học giả khó minh bạch nên lại chỉ thẳng gốc ngọn của nguồn thiền, chỗ hòa hợp của chân vọng, chỗ ẩn hiển của Không Tánh, chỗ sai khác của giáo nghĩa, chỗ khác của đốn tiệm, chỗ hỗ tương đắp đổi của che đậy và bày tỏ, chỗ sâu cạn của quyền thực, chỗ phải quấy của hạn cuộc và dung thông

“Như Thầy tôi (Khuê Phong) quả là nâng mặt trời Phật mà soi chiếu mọi ngóc ngách thì các nghi ngờ, che khuất đều trừ sạch. Thuận tâm Phật mà ban rải Đại Bi, tột kiếp đều được lợi ích. Vậy thì Đức Thế Tôngiáo chủ khai mở giáo pháp, Thầy tôi là người dung hội giáo pháp, gốc ngọn phù hợp nhau, xa gần soi rọi nhau. Có thể nói là “Hoàn tất cái công việc một đời truyền giáo của Như Lai” vậy.

“Hoặc có người hỏi : “Từ Đức Như Lai chưa hề có tổng hợp mà thông suốt, nay một phen làm trái với tông thú mà chẳng chịu giữ, bỏ sự quan phòng mà chẳng chịu trông nom thì há chẳng trái với Đạo bí tàng thầm hợp ư?”

“Xin đáp rằng : “Đức Như Lai tuy ban đầu nói riêng ba thừa, về sau mới thông thành một Đạo. Bởi thế trong kinh Niết bàn, Bồ Tát Ca Diếp thưa: “Chư Phật có mật ngữ, không có chỗ chứa giấu bí mật !” Đức Thế Tôn mới khen rằng : “Lời nói của Như Lai mở tỏ rõ ràng, thanh tịnh không che lấp. Người ngu chẳng hiểu, gọi đó là bí mật chứa giấu. Người trí rõ thông thì chẳng gọi là chứa dấu”. Đây là chứng cớ vậy. Bởi thế Vương Đạo hưng thịnh, thì cửa nẻo chẳng phải đóng, chỉ cần giữ chốn biên cương. Phật đạo đầy đủ thì các pháp tự tổng trì mà chỉ đề phòng ma ngoài. Chẳng nên giữ lấy tình chấp, mà tranh cãi lẫn nhau vậy”.

Như Ông Bùi Hưu, đắc pháp nơi Tổ Hoàng Bá, rõ việc hướng thượng mà lại không bỏ một lối cát đằng của Ngài Khuê Phong quả có thể nói là “tất cả hòa đồng, được không sai lầm” vậy. Là người sanh trở lại ư?

Kinh : “Ở ngay trong cái Đồng mà hiện ra các cái Khác. Mỗi mỗi Tướng Khác đều mỗi mỗi thấy Đồng, gọi là Thiện Hiện Hạnh.

Thông rằng : Đã lìa Si Loạn ắt Lý Sự vô ngại. Tức Lý, tức Sự ắt Đồng chẳng ngại Khác vậy. Tức Sự, tức Lý ắt Khác chẳng ngại Đồng. Ở trong thể hòa đồng, chẳng ngại hiển ra cái Khác. Ở trong chỗ khác tướng, lại mỗi mỗi thấy Đồng. Hiện Đồng, hiện Khác cả hai đều chẳng ngăn ngại nhau. Đó chỉ vì không si loạn, tách bạch rõ ràng cùng cực mảy tơ mới có thể biến hiện như thế, nên gọi là Thiện Hiện Hạnh.

Tổ Quy Sơn đang cho quạ ăn, quay đầu thấy Ngài Ngưỡng Sơn, bèn nói: “Hôm nay vì nó mà thượng đường một phen”.
Ngưỡng Sơn : “Con cũng tùy lệ được nghe!”
Tổ Quy : “Nghe việc ấy thế nào?”
Ngưỡng Sơn : “Quạ kêu tiếng quạ, bồ cắt kêu tiếng bồ cắt!”
Tổ Quy : “Sao lại còn thanh sắc?”
Ngưỡng Sơn : “Hòa Thượng mới nói gì thế?”
Tổ Quy : “Ta chỉ nói vì nó mà thượng đường một phen”.
Ngưỡng Sơn : “Vì sao lại gọi là thanh sắc ?”
Tổ Quy : “Tuy nhiên như thế, nghiệm suốt qua rồi thì không ngại”.
Ngưỡng Sơn : “Đại sự nhân duyên nghiệm ra làm sao?” 
Tổ Quy đưa nắm tay lên.
Ngưỡng Sơn : “Rốt cũng chỉ Đông vẽ Tây”.
Tổ Quy : “Ông vừa hỏi cái gì thế?”
Ngưỡng Sơn : “Hỏi Hòa Thượng đại sự nhân duyên”.
Tổ Quy : “Vì sao lại gọi là chỉ Đông vẽ Tây?”
Ngưỡng Sơn : “Vì vướng nơi thanh sắc nên con mới hỏi qua”.
Tổ Quy : “Thật chưa hiểu rõ chuyện này”.
Ngưỡng Sơn : “Như sao là được hiểu rõ chuyện này ?”
Tổ Quy : “Huệ Tịch thanh sắc, lão tăng Đông Tây”.
Ngưỡng Sơn : “Một mặt trăng ngàn con sông, Thể chẳng phân theo nước !”
Tổ Quy : “Vậy nên thế nào mới được?”
Ngưỡng Sơn : “Như vàng với vàng rốt không khác sắc, huống có khác tên?”
Tổ Quy : “Vậy thì cái đạo lý không có khác tên là thế nào?”
Ngưỡng Sơn : “Thoi, mâm, trâm, vòng làm quách cái chậu bồn”.
Tổ Quy : “Huệ Tịch nói thiền như sư tử rống, làm các loài chồn cáo, giả can kinh hoảng tứ tán”.
Xem cha con Quy Ngưỡng tơ lại sợi qua, trong Đồng hiện Khác, trong Khác hiện Đồng, nói Đồng nói Khác như hạt châu lăn trên mâm. Đó là chơn đắc Thiện Hiện Hạnh bí mật tạng. Chẳng phải là bậc mắt sáng thì có ai biết nỗi !

Kinh : “Như thế cho đến mười phương hư không đầy khắp vi trần, trong mỗi mỗi vi trần hiện mười phương thế giới. Hiện vi trần, hiện thế giới, không ngăn ngại nhau, gọi là Vô Trước Hạnh.

Thông rằng : Đây là từ Thiện Hiện Hạnh mà mở rộng ra. Không những Đồng, Khác hỗ tương hiển lộ mà Một, Nhiều cũng hỗ tương dung thông, hiện vi trần, hiện thế giới, trong mười phương giao thiệp lẫn nhau. Trong một vi trần hiện bày mười phương cõi, gọi là hiện thế giới. Ngay chỗ hiện ra cõi không phá hoại hình tướng vi trần, gọi là hiện vi trần. Tương tự lưới ngọc Đế Thích trùng trùng, cảnh tượng của sự sự vô ngại. Mới bắt đầu vào cảnh giới này, nên chỉ gần với Vô Trước, chứ chưa đến chỗ nhiệm mầu của tất cả thần hóa giải thoát thuần ròng chẳng thể nghĩ bàn. Hạnh Vô Trước này thì Vô Trước cũng không, nên so với cái Vô Trước ở đoạn Bảy Chỗ Trưng Tâm hoàn toàn khác hẳn. Nếu có chút tơ hào cái chẳng bám trước chưa hết sạch thì không thể gọi là Vô, vì đã có đối đãi làm sao khỏi ngăn ngại nhau ư?

Ngày khai đường, có vị tăng hỏi thiền sư Đại Huệ Tông Cảo : “Trời, người tụ hội, trường tuyển Phật mở, Tổ lệnh đang hành, rao bảo thế nào?”
Tổ Cảo nói : “Chim ngu bay ngược gió”.
Vị tăng hỏi : “Khắp cõi còn không nơi tìm thấy. Rõ ràng một điểm giữa tòa viên”.
Tổ Cảo nói : “Nhơn gian muôn nước chảy về Đông !”

Lại có vị tăng giành bước ra, Tổ Cảo ngăn đứng lại mà nói: “Giả sử nghiền nát trái đất thành vi trần, mỗi mỗi hạt bụi có một cái miệng. Mỗi mỗi miệng đầy đủ tướng lưỡi rộng dài vô ngại, phát ra vô lượng sai biệt ngôn từ. Mỗi mỗi ngôn từvô lượng sai biệt diệu nghĩa. Hàng nạp tăng nhiều như số vi trần trên, mỗi vị đều đầy đủ miệng như thế, lưỡi như thế, âm thanh như thế, ngôn từ như thế, diệu nghĩa như thế, cùng lúc đưa ra trăm ngàn vấn nạn, mỗi mỗi vấn nạn khác nhau, chỉ như một tiếng ho hen của lão tăng là đáp xong hết một lượt. Thừa khi ở tại giữa ấy, làm vô lượng vô biên Phật sự rộng lớn cùng khắp pháp giới. Đó là chỗ nói “Trong một mảy lông hiện thần biến, tất cả Phật cùng thuyết, trải khắp vô lượng kiếp không cùng ngằn mé”. Bèn như thế là xong. 

“Còn làm náo nhiệt trong môn đình, đứng trong chánh nhãn mà xem, đó chính là nghiệp thức mang mang không gốc rễ. Môn hạ của Tổ Sư một điểm cũng chẳng có dùng, huống là gai góc cú chương, đối đáp giỡn đùa. Chẳng những làm mai một tông thừa từ xưa, mà còn cười giỡn lỗ mũi nạp tăng. Bởi thế mà nói “Tơ hào vướng niệm, là nhân nghiệp của ba đường. Thoáng chút sanh tình là muôn năm bị trói buộc”. Danh Thánh, hiệu phàm đều là tiếng tăm giả dối. Tướng tốt, hình hèn đều là huyễn sắc. Các ông cầu theo đó làm sao khỏi mang lụy? Mà chán bỏ đi lại càng đại hoạn. Hãy xem Thánh xưa bảo dạy như vầy: “Như binh khí quốc gia, bất đắc dĩ mới dùng”. Trên “Việc bổn phận”, không làm gì có chuyện ấy.

“Hôm nay sơn tăng rao bày như vậy, thật cũng giống như không mộng mà nói mộng, da thịt lành mà khoét cho thành ghẻ. Bậc hiểu biết mà đến thì quả đáng ăn gậy. Chỉ vì nay không có tay hạ được độc thủ ư ? Nếu có thì có thể báo đáp cái ân không thể báo đáp, cùng chung hoằng hóa vô vi. Như không làm ngược lệnh này, tốt rồi vậy.”

Bổng đưa cây gậy lên, nói : “Đưa ngang kiếm thần toàn chánh lệnh. Thái bình hoàn vũ, chém si ngoan!” 

Dộng gậy một cái, hét một hét, liền xuống tòa.

Theo chỗ thấy của Ngài Đại Huệ thì hiện vi trần, hiện thế giới cũng chưa là kỳ đặc. Đáng nói là “Vô Trước cũng không”.

Kinh : “Mọi thứ trước mắt đều là Đệ Nhất Ba La Mật Đa, gọi là Tôn Trọng Hạnh.

Thông rằng : Hiện vi trần, hiện thế giới, hiện thân thể, hiện thuyết pháp đều chẳng ngăn ngại nhau, đều từ trong Tâm Bát Nhã tuôn ra. Sáu Ba La Mật gọi là Đáo Bỉ Ngạn (18), chỉ có Bát Nhãtối cao Đệ Nhất. Bát NhãĐại Trí Huệ, vượt tất cả những gì tôn quý nhất nên gọi là Tôn Trọng Hạnh. Nếu chỉ nhận thấy, nghe, hay, biết, đuổi theo trần trôi lăn mà cho là diệu dụng, đó là việc phía “Con tôi cái tớ”, “Trước lừa sau ngựa”, chẳng có gì là tôn quý.

Tổ Cư nói : “Như người nơi mỗi thứ đều rõ. Nơi mỗi vật đều thông thì chỉ gọi là người rõ chuyện, rốt cuộc chẳng thể gọi là Tôn Quý. Hãy biết Tôn Quý là một đường tự khác. Tức đó là vật cực quý cực trọng, chẳng được rồi đem hướng về phía Tôn Quý. Hãy biết cái đó chẳng thể nghĩ bàn, chẳng đợi tâm mong. Bởi thế, người xưa nói: “Giống như hai tấm gương, ánh sáng mỗi bên đối nhau, quang minh cùng chiếu, chẳng hề thêm bớt há chẳng phải là một thứ sao?” Còn gọi là chuyện phía bên ảnh tượng. Như mặt trời mọc, chiếu sáng thế gian, một phần là sáng tỏ còn phần nửa kia gọi là gì? Như nay người chưa rõ được bóng sáng ở nơi đầu cửa, là chuyện nông cạn bên ngoài, mà cho là chuyện trong nhà thì sao được?”

Vị tăng hỏi Tổ Vân Cư : “Như sao là chỗ tôn trọng của Sa Môn?”

Tổ Cư nói : “Chỗ tâm thức chẳng đến”.

Có vị tăng hỏi thiền sư Quảng Lợi Dung : “Ngàn đường bặt nẻo, nghĩ nói chẳng thấu thì thế nào?”

Đáp rằng : “Vẫn còn là kẻ dưới thềm”.
Hỏi : “Như sao là người trên thềm?”
Đáp rằng : “Lầu rồng chẳng giở tay”.

Rồi nói : “Thế nào là người tôn quý ấy? Thử nói xem! Chớ có ngồi mãi trên thiền sàng, gặp người khác thì chẳng chịu đâu. Bỗng bị bậc sáng mắt bức bách liền hướng về trong núi Thiết Vi ẩn mình. Nếu đến cửa Quảng Lợi này phải nói cho được Đệ Nhất Cú, liền mở một mối Đạo, cùng huynh đệ thương lượng”.

Khi ấy có một vị tăng bước ra lễ bái

Ngài nói : “Sắp nói ấy là chủ tàu bè nước khác, nào hay là người buôn bán xứ này !”
Chỗ này mà chẳng thấu rõ Đệ Nhất Ba La Mật Đa thì quả khó mà thấy suốt một đường Tôn Trọng rõ ràng như lằn chỉ tay.

Kinh : “Như thế viên dung, thành tựu Quy Tắc của mười phương Chư Phật, gọi là Thiện Pháp Hành.

Thông rằng : Ở địa vị trước hiện vi trần hiện thế giới, mọi thứ diệu dụng đều là Đệ Nhất Ba La Mật Đa từ trong chỗ Bất Tư Nghì tuôn ra, nên viên dung vô ngại, thành tựu Quy Tắc lợi sanh của mười phương Chư Phật. Quy Tắc ấy là Pháp vậy. Viên dung không dấu vết, đó là Thiện Pháp. Chẳng phải Thiện Pháp thì không thể độ chúng sanh. Hạnh này đã viên mãn, dần dần hướng về Bi Nguyện vậy.

Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo thượng đường : “Muốn rõ nghĩa Phật Tánh phải xem thời tiết nhân duyên. Thời tiết đến, Lý ấy tự sáng”.

Ngài dựng đứng cây phất tử mà nói : “Có thấy không?”

Gõ thiền sáng nói : “Có nghe không? Thấy, nghe rõ ràng là cái gì thế? Như hướng vào trong ấy đưa ra được thì ơn vua ơn Phật một lúc đền xong. Nếu chưa như thế thì Kính Sơn(19) phá dây leo cho”.

Lại đưa cây phất tử lên mà nói : “Xem đây, xem đây ! Phật Vô Lượng Thọ trên đầu cây phất tử của Kính Sơn, phóng đại quang minh chiếu soi không thể nói, không thể nói, lại ở nơi cõi Phật số vi trần thế giới không nói hết chuyển đại pháp luân, làm vô lượng vô biên Phật sự rộng lớn. 

Trong đó, dầu phàm dầu Thánh, dầu chánh dầu tà, dầu cỏ dầu cây, dầu hữu tình dầu vô tình gặp ánh sáng ấy đều đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Do đó, Chư Phật ở đây mà đắc thì đầy đủ Nhất Thiết Chủng Trí. Chư Đại Bồ Tát ở đây mà đắc thì thành tựu hết các Ba La Mật. Bậc Bích Chi, Độc Giác ở đây mà đắc, ra đời không có Phật, hiện thần thông quang minh. Các vị chúng Thanh Văn kịp tới nghinh đón năm trăm vị A La Hán, ở đây mà đắc, được tám Giải Thoát, đủ sáu Thần Thông. Trời, Người ở đây mà đắc thì tăng trưởng Thập Thiện. Tu La ở đây mà đắc thì trừ bỏ kiêu mạn. Địa ngục ở đây mà đắc thì đốn siêu Thập Địa. Ngạ quỷ, bàng sanh cùng bốn loại sanh, chín cách sanh, tất cả hữu tình ở đây mà đắc thì tùy theo căn tánh đều được thọ dụng.
“Phật Vô Lượng Thọ phóng đại quang minh, làm xong các Phật sự, sau đó dùng nuớc bốn biển lớn rưới lên đỉnh đầu Đức Phật Di Lặcthọ ký A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, sẽ nơi ngôi Bổ Xứ làm đại Phật sự.

“Phật Vô Lượng Thọthần thông như thế, có tự tại như thế, có oai thần như thế, vào trong ấy, còn có biết ân, báo ân hay chăng? Nếu có, đưa ra cho Kính Sơn này cùng xem. Nếu không, hãy nghe lấy một bài tụng :

“Pháp giới mười phương trong miệng người
Cả thảy pháp giới tức cái lưỡi
Chỉ nhờ chót lưỡi với miệng này
Chúc tôi, ông thọ không hở sót
Đây ức vạn năm nhuần nguồn phước
Như biển rộng sâu đời không cạn
Sư tử hang, sanh sư tử con
Phụng hoàng hẳn xuất Đơn Sơn động
Là tốt là lành khắp chín trời
Cây cỏ côn trùng trọn đẹp vui
Đảnh lễ Bất Khả Tư Nghì Phật
Như bầy sao chầu mặt trăng soi
Khiến được rao bày vi diệu kệ
Trong Đệ Nhất Nghĩa nói Thật Chân”.

Đoạn cát đằng dây leo này của Ngài Đại Huệ hiển bày đầy đủ quy tắc của mười phương Chư Phật, đủ làm nghi thức Thiện Pháp cho khắp nơi. Chỉ tiếc là lúc ấy không có một tri âm tương kiến để liền lật ngược thiền sàng, xem coi Ngài còn lời nào chỉ dạy!

Kinh : “Mỗi mỗi đều là Nhất Chân vô vi thanh tịnh vô lậu, vì Tánh Bổn Nhiên là như thế, gọi là Chân Thật Hạnh.

Thông rằng: Toàn Tánh là Tu, nên thành Quy Tắc. Toàn Tu là Tánh, nên vốn Vô Vi. Rõ được Tánh vốn Vô Vi bèn chẳng hướng đến Bồ Đề, vì vốn tự trong sạch. Chẳng trừ phiền não, vì vốn tự Vô Lậu. Nhậm vận liền liền, trọn gọi là Thật Hạnh. Nếu một niệm dính vào hữu vi thì trọn chẳng phải Chân vậy. Hữu vi thuộc về tạo tác, làm sao được là Bổn Nhiên.

Đức Mã Tổ khai thị cho đại chúng rằng : “Đạo chẳng dùng tu, chỉ không ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? Hễ có tâm sanh tử tạo tác hướng theo đều là ô nhiễm. Như muốn hội thẳng vào Đạo thì bình thường tâm là Đạo. Sao là bình thường tâm? Không tạo tác, không thị phi, không nắm bỏ, không đoạn thường, không phàm không Thánh. Kinh nói “Chẳng phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh Thánh Hiền đó là hạnh Bồ Tát”.

“Chỉ như nay đi, đứng, nằm, ngồi, ứng cơ tiếp vật trọn hết là Đạo. Đạo chính là Pháp Giới, cho đến hằng sa diệu dụng chẳng lọt ra ngoài Pháp Giới. Nếu chẳng như thế sao nói được là Tâm Địa pháp môn? Sao nói là Vô Tận Đăng? Tất cả pháp đều là tâm pháp. Tất cả danh đều là tâm danh. Muôn pháp đều từ tâm sanh. Tâm là nguồn gốc của vạn pháp. Kinh nói “Rõ Tâm, thấu suốt nguồn gốc, nên gọi là Sa Môn”.

“Danh bình đẳng, nghĩa bình đẳng, tất cả các pháp đều bình đẳng thuần nhất không tạp. Nếu ở trong giáo môn được tùy thời tự tại, kiến lập pháp giới thì trọn cả là pháp giới, nếu lập Chân Như thì trọn cả là Chân Như, nếu lập Lý thì tất cả pháp trọn là Lý, nếu lập Sự thì tất cả pháp trọn là Sự. Đưa lên thì một thì ngàn theo, Lý-Sự không khác, trọn hết thảy là diệu dụng, không còn Lý nào khác, tất cả đều do sự xoay chuyển ứng dụng của Tâm. Thí như bóng trăng có biết bao nhiêu mà mặt trăng chỉ là một cái. Các loại nước có biết bao nhiêu mà Tánh nước vốn là một. Mọi thứ lập thành đều do Nhất Tâm vậy. Kiến lập cũng được, quét sạch cũng được, trọn cả là diệu dụng, đều là nhà mình, chẳng có lìa Chân Như mà có được chỗ lập. Chỗ kiến lập tức Chân, trọn cả là Chân Thể của nhà mình. Nếu chẳng như thế lại là ai khác? Tất cả pháp đều là Phật Pháp. Hết thảy các pháp, đó là giải thoát. Giải thoát tức là Chân Như. Các pháp chẳng ra ngoài Chân Như. Đi, đứng, nằm, ngồi chính là hoạt dụng Bất Khả Tư Nghì, nào đợi thời tiết. Kinh nói “Chốn chốn, nơi nơi ắt đều có Phật”.

“Phật là Năng Nhân, tròn trí huệ, khéo cơ quyền, hay phá trừ lưới nghi của hết thảy chúng sanh, khỏi ngoài trói buộc của hữu, vô, tình phàm Thánh hết tận, Nhân-Pháp đều Không, chuyển pháp luân vô đẳng, siêu vượt số lượng, chỗ làm không ngại, Sự-Lý suốt thông. Như trời nổi mây, thoạt có liền không, chẳng lưu dấu ngại. Cũng như vẽ nước thành chữ, chẳng sanh chẳng diệt. Đó là Đại Tịch Diệt.

“Trong trói buộc(20) có tên là Như Lai Tạng. Khỏi trói buộc(21) gọi là Thanh Tịnh Thân. Pháp Thân vô cùng, thể không tăng giảm, lớn được nhỏ được, vuông được tròn được. Ứng vật hiện hình, như trăng trong nước, làu làu vận dụng chẳng gieo mầm rễ. Chẳng hết hữu vi, chẳng trụ vô vi. Hữu vi là cái thường dùng của vô vi. Vô vi là chỗ nương của hữu vi. Không trụ vào chỗ nương nên gọi là Như Không Vô Sở Y.

“Nghĩa tâm sanh diệt cũng là nghĩa Tâm Chân Như. Tâm Chân Như là như gương sáng soi hình tượng. Gương ví dụ cho Tâm, hình tượng ví dụ cho các Pháp. Nếu tâm bám nắm Pháp tức là dính líu với nhân duyên ở ngoài, đó là nghĩa sanh diệt. Chẳng bám nắm các Pháp đó là nghĩa Chân Như.

“Thanh Văn thì nghe thấy Phật Tánh; Bồ Tát thì mắt thấy Phật Tánh. Rõ thấu Vô Nhị gọi là Tánh Bình Đẳng. Tánh nào có khác nhau, Dụng thì chẳng đồng. Ở mê là Thức, ở ngộ là Trí. Thuận với Lý là ngộ, thuận với sự là mê. Mê tức là mê Bổn Tâm chính mình. Ngộ tức là ngộ Bản Tánh chính mình. Liền ngộ thì vĩnh viễn là ngộ, chẳng trở lại mê. Như mặt trời mọc chẳng hợp với tối. Mặt trời Trí Huệ hiện ra thì chẳng còn tối tăm phiền não.

“Tỏ suốt tâm cùng cảnh giới, vọng tưởng liền chẳng sanh. Vọng tưởng đã chẳng sanh đó là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Xưa có, nay có, chẳng mượn tu Đạo, tọa thiền. Không tu, không tọa đó là Như Lai Thanh Tịnh Thiền.

“Như nay mà thấy lý chân chánh này thì chẳng tạo các nghiệp, tùy phận qua một đời, một thân một áo, ngồi đứng có nhau, Giới Hạnh tăng huân chứa trong nghiệp sạch. Chỉ là như thế, lo gì chẳng thông. Các người đứng đã lâu. Trân trọng !”

Đại sư Mã Tổ nói về cái Bản Lai Chân Thật, không mượn tu làm, mà lại không phế bỏ Giới Hạnh tăng huân chứa trong nghiệp sạch. Quả là đắc pháp yếu Viên Đốn.

Mười Hạnh như vậy chẳng rời Mười Trụ ở trước, tùy theo địa vị tiến tới thêm, không Hạnh nào mà chẳng khai thác Tánh Giác, đó là thành thục quả Phật mà thôi.

Trụ, tiếp theo đó là Hạnh chính là muốn chẳng trụ vào chỗ nương-y mà hành Bồ Tát Hạnh, rõ ràng như Đại Sư Mã Tổ chỉ bày. Đó mới là một vị (mùi) Chân Thật Hạnh vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49772)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34651)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33466)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43947)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57106)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47585)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39432)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38491)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52967)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36621)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32254)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40501)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43508)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31477)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46729)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36224)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28720)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29262)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31915)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28852)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33393)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29163)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 61003)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39802)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26704)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29694)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37407)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40109)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26858)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42691)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37294)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28311)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28908)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26413)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27182)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26205)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34697)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27831)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30493)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33308)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28576)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30091)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25496)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21862)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51338)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26744)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28640)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27727)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24368)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27481)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31968)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30209)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27731)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35478)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27472)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30030)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31798)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23043)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24200)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23048)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant