Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

05. Thập Hồi Hướng

22 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 15197)
05. Thập Hồi Hướng

Tây Tạng Tự - Bình Dương

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG
Người dịch: Thubten Osall Lama - Nhẫn Tế Thiền Sư


PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG

CHƯƠNG IV: KHAI THỊ CÁC ĐỊA VỊ TU CHỨNG

Mục 2: An Lập Các Thánh Vị

V. THẬP HỒI HƯỚNG

Kinh: “Anan, người thiện nam ấy đầy đủ thần thông, thành tựu Phật sự rồi, thuần khiết tinh chân, xa các lỗi nạn. Hiện độ chúng sanh mà diệt dứt các tướng hóa độ. Quày tâm vô vi hướng lối Niết Bàn, gọi là Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sanh, Ly Chúng Sanh Tướng Hồi Hướng.

Thông rằng: Mười Hạnh đã đủ, hiện trần, hiện sát, Một là Vô Lượng, Vô Lượng là Một, đó là Thần Thông. Hay thành tựu quy tắc của mười phương Chư Phật, đó là Phật sự. Thuần khiết tinh chân chỉ một cái Chân Thật duy nhất, trong sạch không phiền não, xa lìa các lỗi nạn ngăn ngại, có thể nói là người tự độ vậy. Cứ thế mà một đường nhắm hướng Vô Vi thì gọi là người rõ xong, cho nên đảm đương việc độ thoát chúng sanh. Giả sử khi độ chúng sanhhình tướng hóa độ chưa diệt tức là bám mắc vào Ngã, Nhân, Chúng Sanh, Thọ Giả. Cho nên phải diệt dứt những sự làm vẻ có cứu độ, quày cái tâm vô vi của ta, hướng về hết thảy chúng sanh kia mà cùng bước vào con đường Niết Bàn Tịch Diệt. Tự chứng Niết Bàn, Tánh vốn Vô Vi. Hiện dẫn dắt chúng sanh hướng bước chốn Niết Bàn cũng chỉ là Vô Vi. Nên suốt ngày độ thoát chúng sanhthật khôngtướng độ nào để đắc. Nếu thấy có người để cứu độ liền dính lấm hữu vi, trái ngược với đường Niết Bàn Tịch Diệt, chẳng trở về được cội gốc quyết định chẳng sanh chẳng diệt vậy. Nên diệt dứt các tướng hóa độ tức gọi là Ly Chúng Sanh Tướng Hồi Hướng. Tướng độ thoát còn không có, tướng chúng sanh nào đâu có được?

nhà sư hỏi Tổ Hoàng Bá: “Phật có độ chúng sanh chăng?”

Tổ Bá nói: “Thật không có chúng sanh để Như Lai độ. Ngã chẳng thể đắc, phi ngã nào đâu để đắc? Phật, chúng sanh đều chẳng thể đắc”.

Nhà sư hỏi: “Hiện có ba mươi hai tướng cho đến việc độ chúng sanh, sao nói được là không?”

Tổ Bá nói: “Phàm hễ có tướng đều là hư vọng. Như thấy các tướng chẳng phải tướng liền thấy Như Lai”.

Ông Sơn Nhân tên Sử hỏi thiền sư Khuê Phong: “Các kinh đều nói độ thoát chúng sanh, mà chúng sanh tức phi chúng sanh thì cớ sao phải nhọc nhằn độ thoát?”

Tổ Phong đáp: “Chúng sanh nếu là thật có thì độ thoát hẳn là nhọc nhằn. Còn đã tự nói “Tức phi chúng sanh” thì nào chẳng khác độ mà không độ”.

Hợp hai chuyện trên là đủ để chú giải đoạn kinh này.

Lại như Nam Nhạc Huệ Tư đại thiền sư khi nghe Ngài Chí Công sai người đến bảo rằng: “Sao chẳng xuống núi giáo hóa chúng sanh mà cứ một mực làm kẻ “Đưa mắt trông mây” là sao?”

Ngài nói: “Ba đời Chư Phật bị một cái miệng của ta nuốt ráo thì còn chỗ nào có chúng sanh để độ nữa?”

Ngài Bảo Giác Nhất tụng rằng:

“Mắt nhìn hơi khói, nằm mây trắng

Kể gì dưới núi có càn khôn

Từ đâu lại có chúng sanh độ?

Một miệng, ba đời Phật, nuốt luôn”.

Ni sư Nhàn Lâm An tụng rằng:

“Một miệng nuốt luôn Phật, chúng sanh

Mảy may chẳng lập, mới rành rành

Đầu cây (gậy) khêu dậy vầng nhật nguyệt

Khua động tam thiên núi biển mờ”.

Như đại sư Huệ Tư [Sơ Tổ Thiên Thai tông] thật đắc Ly Chúng sanh Tướng Hồi Hướng vậy. Há chỉ chứng địa vị Thiết Luân mà thôi ư?

Kinh: “Hoại diệt cái có thể hoại diệt, xa lìa các sự lìa, gọi là Bất Hoại Hồi Hướng.

Thông rằng: Hoại diệt cái có thể hoại diệt tức là lìa chúng sanh tướng. Xa lìa các sự lìa tức là chỗ lìa tướng cũng lìa bỏ. Hoại diệt các tướng là Sở Không, xa lìa sự lìa là Năng Không. Năng Sở đều Không mà Bản Giác chẳng hoại, nên gọi là Bất Hoại Hồi Hướng. Nói là Bất Hoại để mà phân biệt với cái Ngoan Không của Nhị ThừaĐoạn Kiến của ngoại đạo. Tuy hoại diệt các tướng mà cái Bất Hoại vẫn thường tồn, thế mới là Bất Hoại Hồi Hướng vậy.

Chân thiền sư hỏi Bổn Tịnh thiền sư: “Đạo đã vô tâm thì Phật có tâm chăng? Phật và Đạo là một hay là hai?”

Tổ Tịnh nói: “Chẳng một, chẳng hai”.

Thiền sư Chân hỏi: “Phật độ chúng sanh vì là có tâm. Đạo chẳng độ chúng sanh vì là vô tâm. Một độ, một chẳng độ sao lại không hai?”

Đáp rằng: “Nếu nói Phật độ chúng sanh, Đạo thì không độ: đó là Đại Đức vọng sanh nhị kiến. Như sơn tăng thì chẳng thế. Phật là hư danh, Đạo cũng vọng lập, cả hai đều không thực, toàn là giả danh. Trọn trong một cái giả, làm sao phân hai?”

Hỏi: “Phật và Đạo nếu là giả danh thế ngay khi lập danh đó là ai lập? Nếu có người lập sao lại nói không?”

Đáp: “Phật và Đạo nhân tâm mà lập. Suy cho cùng cái tâm lập ra này thì cũng là không. Cả hai đều chẳng thực, biết như mộng huyễn liền tỏ ngộ cái Bổn Không. Gượng lập hai danh Phật, Đạo đó là kiến giải hàng Nhị thừa”.

Nhơn đó nói bài kệ Vô Tu Vô Tác rằng:

“Thấy Đạo mới tu Đạo

Không thấy lấy gì tu?

Tánh Đạo như hư không

Hư không chỗ nào tu?

Xem khắp kẻ tu hành

Bươi lửa tìm bọt nước

Hãy xem hình gỗ múa

Dây đứt cả thảy ngừng”.

Hình gỗ múa rối có thể hoại diệt, nhưng người làm cho hình gỗ múa rối chẳng thể hoại diệt, nên khi tướng chúng sanh hoại thì đó là hư không chẳng hoại, chứ chẳng phải lìa ngoài cái tướng bị hoại diệt mà riêng có cái gọi là chẳng hoại. Ngay hoại là chẳng hoại, nên gọi là Bất Hoại Hồi Hướng.

Kinh: “Bản Giác lặng trong như nhiên, Giác ấy bằng cái Giác của Phật, gọi là Đẳng Nhất Thiết Phật Hồi Hướng.

Thông rằng: Hành tướng có thể hoại diệt, nhưng cái Biết sự hoại diệt thì chẳng hoại. Cái lìa có thể lìa, nhưng cái Biết sự lìa thì chẳng có lìa. Đây là Bổn Giác vậy. Lặng trong hợp vào lặng trong, Thức tức là Trí, cũng có thể gọi là lặng trong như nhiên.

Chỗ này nói “Bản Giác lặng trong như nhiên” thì chẳng phải là chỗ không dao động của Thức lặng yên vậy. Chỉ vì cái Bổn Giác này chẳng phải là Thức, nên có thể ngang bằng cái Giác của Phật. Tình phàm Thánh giải tất cả tiêu tan, chỉ còn một cái Chân thật, nên có thể bằng ngang với tất cả Chư Phật. Tuy ngang với cái Giác của tất cả Chư Phật, nhưng không phải là Đẳng Giác vì còn sự hồi hướng trong đó, còn có sự tiến đến ở trong đó, nên gọi là Đẳng Nhất Thiết Phật Hồi Hướng.

Tổ Hoàng Bá nói: “Bậc Thanh Văn là do âm thanh mà đắc ngộ nên gọi là Thanh Văn. Chỉ là chẳng rõ Tự Tâm, ở trên Thanh Giáo [Giáo pháp dạy bằng lời nói] khởi ra hiểu biết, hoặc do thần thông, hoặc nhờ tướng tốt, ngôn ngữ vận động, nghe có Bồ Đề Niết Bàn, trải qua ba tăng kỳ kiếp tu thành Phật Đạo, đều thuộc về đạo Thanh Văn, gọi là Thanh Văn Phật. Độc chỉ ngay đây tức thời rõ suốt Tự Tâm, xưa nay là Phật, không một pháp khá đắc, không một Hạnh để tu, đó là Vô Thượng Đạo, đó là Chân Như Phật.

“Này người học Đạo, chỉ sợ một niệm có: liền cách xa Đạo. Niệm niệm Vô Tướng, niệm niệm Vô Vi, tức đó là Phật. Này người học Đạo, như muốn thành Phật thì tất cả Phật Pháp đều chẳng dùng đến chuyện học, độc chỉ học không cầu, không bám mắc. Không cầu thì tâm chẳng sanh, không bám mắc thì tâm chẳng diệt. Chẳng sanh chẳng diệt, tức đó là Phật.

“Tám vạn bốn ngàn pháp môn để đối với tám vạn bốn ngàn phiền não, đó chỉ là cửa dẫn dắt giáo hóa, vốn thật chẳng có pháp nào. Lìa tức là pháp; biết lìa, đó là Phật. Chỉ lìa tất cả phiền não thì liền chẳng có pháp nào để đắc”.

Nếm được mùi vị “Biết lìa là Phật” của Tổ Hoàng Bá thì rõ ràng cái ý kinh “Bản Giác lặng trong như nhiên, Giác ấy bằng cái Giác của Phật”.

Lại như Ngài Huệ Siêu hỏi Tổ Pháp Nhãn: “Như sao là Phật?”

Tổ Nhãn nói: “Ông là Huệ Siêu”.

Vị tăng hỏi Tổ Sơ Sơn: “Như sao là Phật?”

Tổ Sơn nói: “Sao chẳng hỏi cái lão già Sơ Sơn?”

Như lời đáp ấy là quá chừng nhiều. Thảy cốt đề tỉnh Bản Giác, thì ngay đây bình đẳng với Phật.

Kinh: “Tinh Chân phát sáng, địa như Phật Địa, gọi là Chí Nhất Thiết Xứ Hồi Hướng.

Thông rằng: Cái Tinh Chân của Bản Giác chẳng phải chỉ là linh nhiệm sáng suốt vững bền mà thôi, lại có thể phát sáng rải bày, bước đi để thành Địa Vị. Địa Vị như Phật Địa, đối với Trị Địa Trụ ban đầu thật khác xa vậy. Có cái Thể của Chân Như toàn khắp pháp giới như thế thì cũng cùng ngay cái Dụng của Chân Như toàn khắp pháp giới như thế. Cho nên, cái Giác của Phật cùng khắp tất cả chỗ thì cái Hành của Phật cũng cùng khắp tất cả chỗ. Có chỗ chưa khắp thì chẳng phải là Phật Địa. Đây chỉ mới có thể như Phật chứ chưa có thể là một với Phật, nên gọi là Chí Nhất Thiết Xứ Hồi Hướng.

Vị tăng hỏi Tổ Lâm Tế: “Thế nào là Tam Nhãn Quốc Độ?”

Tổ Lâm Tế nói: “Ta cùng ông vào trong quốc độ Tịnh Diệu, mặc áo thanh tịnh, thuyết nói Pháp Thân Phật. Lại vào trong quốc độ Vô Sai Biệt, mặc áo không sai biệt, thuyết nói Báo Thân Phật. Lại vào trong quốc độ Giải Thoát, mặc áo quang minh, thuyết nói Hóa Thân Phật. Tam Nhãn Quốc độ này đây đều là Y Báo biến hóa. Theo các kinh luận gia thì lấy Pháp Thân làm căn bản, Báo Thân, Hóa Thân là Dụng. Chỗ thấy của sơn tăng thì Pháp Thân chẳng mượn đến lời nói. Bởi thế cổ nhân nói “Thân (Pháp, Báo, Hóa) y theo nghĩa mà luận, Độ căn cứ nơi Thể mà luận”. Pháp Tánh Thân, Pháp Tánh Độ rõ ràngpháp kiến lập. Quốc độ y-thông là nắm tay không, là chiếc lá vàng để dối gạt trẻ nít. Trái tật lê, củ ấu sừng hột khô queo thì tìm nước gì đây? Ngoài tâm không pháp, trong còn chẳng thể đắc thì cầu vật gì?

Thiền sư Thiên Y Hoài thượng đường: “Vô biên cõi Phật, đây kia chẳng cách hở mảy lông. Hãy nói Bất Động Như Lai thế giới Diệu Hỷ thuyết pháp gì đó? Bao đời xưa nay thủy chung chẳng lìa Đương Niệm. Vậy như trong một hội tối sơ Phật Oai Âm Vương độ người nhiều ít? Như thật là người suốt khắp thử nói xem!”

Giây lâu, Ngài nói: “Đường đi khó! Đường đi khó! Đầu núi muôn tầm ông tự thấy!”

Bởi thế, ngộ Pháp Tánh Thân, Pháp Tánh Độ cốt yếu là quay về Vô Vật [Xưa nay không một vật của Ngài Huệ Năng], đó là Chân Phật Địa. Nếu có chỗ đắc thì đã có nơi chốn, làm sao “Đến khắp tất cả chỗ [Chí nhất thiết xứ]”?”

Kinh: “Thế giới, Như Lai hỗ tương, dung nhập, được không chướng ngại, gọi là Vô Tận Công Đức Tạng Hồi Hướng.

Thông rằng: Thế giới tức là Chân Như Pháp Giới, thuộc Tướng Phần. Như Lai tức là Chân Như Bản Thể, thuộc Kiến Phần. Kiến PhầnTướng Phần vốn đồng một nguồn nên tuy Căn Trần phân minh, mà đây kia vẫn là dung nhập. Nêu Kiến Phần thì Tướng Phần ở ngay trong đó. Nêu Tướng Phần thì Kiến Phần ở ngay trong đó. Tức Kiến không gì chẳng phải là Tướng, tức Tướng không gì chẳng phải là Kiến. Thế nên, Thế Giới, Như Lai hỗ tương dung nhập. Vốn không chướng ngại mà chẳng khỏi có chướng ngại, là cái thấy chưa dung thông vậy.

Tinh chân phát sáng đến khắp mọi chốn nhưng vẫn còn ở mọi nơi chốn thấy có hai. Nay hỗ tương dung nhập, tinh chân là tất cả mọi chốn, tất cả chốn chính là tinh chân. Tâm, cảnh trọn dung thông, cả hai không ngăn ngại. Lý chẳng ngại Sự, Sựï chẳng cản Lý, đầy ắp tất cả chỗ, nên gọi là Vô Tận Công Đức Tạng.

Vô Lượng Công Đức của mười Hạnh trước chỉ đủ đức ở thân, còn Vô Tận Công Đức Tạng này là kho công đức không cùng, dùng mà chẳng hết, lấy ra chẳng cạn, ấy là chỉ cái Biển Tạng Thức Như Lai vậy. Hầu như ngang bằng với Hư Không Tạng Bồ Tát, thân và cõi dung nhập mà hay rộng làm Phật sự, tùy thuận chúng sanh.

Ngài Ngũ Tổ Diễn thượng đường rằng: “Ngàn núi bày xanh, bến liễu rủ vàng, lão tiều ca hát, ngư ông nhảy múa, sênh phách rộn ràng, chim hát líu lo, người đẹp phấn hồng, công tử phong lưu, mỗi mỗi đều vì các ông mà phát tỏ cái thượng thượng cơ, mở ra Chánh Pháp Nhãn. Nếu hướng trong ấy mà tiến cử được thì Kim Sắc Đầu Đà [Ngài Ca Diếp] không chỗ dung thân. Nếu chẳng am hiểu, ăn cháo, nhai cơm, chịu cho ông bảy hang tám lỗ [Thất xuyên bát huyệt]!”

Lại như Ngài Pháp Đăng nói bài kệ:

“Ai tin Thiên Chân Phật?

Hưng Bi khắp vạn đường

Bờ xưa, hoa Liêu nở

Cò trắng đứng bãi vàng

Sương rơi sân cỏ mọc

Mây thâu, lạnh trăng khe

Mỗi mỗi : nơi bày chỉ

Tử tế, hãy nhìn xem”.

Đây là Thế Giới, Như Lai chung thành một phiến. Theo đây mà ngộ nhập gọi là Chân Giải Thoát. Dùng công đức này tiếp dẫn chúng sanh, vì thế giới vô tận nên công đức cũng là vô tận.

Kinh: “Ở nơi đồng với Phật Địa, trong ấy mỗi mỗi sanh nhân thanh tịnh. Nương nhân ấy mà phát huy, giữ lấy đạo Niết Bàn, gọi là Tùy Thuận Bình Đẳng Thiện Căn Hồi Hướng.

Thông rằng: Đồng Phật Địa, đồng thanh tịnh, đồng Niết Bàn sao lại nương nơi nhân mà phát huy mỗi mỗi chẳng đồng? Đó là do các thiện căn đã trồng trong những đời trước, mỗi cái do sự huân tập mà có đặc tánh riêng. Tánh thiện tuy bình đẳng mà do căn (rễ) nảy mầm, nương Nhân chứng Quả mà muôn vật chẳng đồng. Dầu chẳng đồng vẫn không ngại sự tự tu tự ngộ, chứng lấy Niết Bàn. Đúng là chẳng cần cố chấp một pháp môn, mỗi mỗi phải đều theo một lối.

Nói tùy thuận nghĩa là tùy theo căn cơtiếp dẫn, chứ chẳng miễn cưỡng làm chỗ không thể được. Đây mới là quyền nghi lớn để độ khắp chúng sanh vậy.

Ngài Tuyết Phong ở nơi Tổ Động Sơn làm đầu bếp.

Một hôm, đang đãi gạo, Tổ sơn hỏi: “Đãi cát bỏ gạo, hay đãi gạo bỏ cát?”

Ngài Phong rằng: “Cát gạo đồng thời bỏ”.

Tổ nói: “Đại chúng lấy gì ăn?”

Ngài Phong bèn đậy bồn gạo lại.

Tổ nói: “Theo cái nhân duyên của ông thì hợp với Đức Sơn”.

Về sau quả nối pháp Tổ Đức Sơn.

Ngài Đầu Tử nêu ra rằng: “Này đại chúng! Tổ Động Sơn nói như vậy là đạo lý gì thế? Tuy là một sắc Càn Khôn, khốn nỗi núi cao sông rộng. Bởi thế lão dã này nói “Công phu chẳng tới, chẳng vuông tròn. Ngôn ngữ không thông chẳng phải bà con””.

Bèn thay thế, nói: “Đãi cát bỏ gạo, đãi gạo bỏ cát: Cây quế trường sanh không ảnh, trải qua sương tuyết kết trái đều”.

“Đại chúng lấy gì ăn: Chim Kim Phụng hái bông ngậm chẳng hết, Ngọc Sô [Chim giả bằng ngọc] ăn nhụy lá tươi hoài”.

Tụng rằng:

“Hiện đầy bình bát: không một vật

đồng Hương Tích hóa đồ ngon

Nhật nguyệt xoay hoài soi chẳng thấu

Người gỗ múa tay hướng lò hồng”.

Ngài Đầu Tử rất rành ý chỉ của Tổ Động sơn, biện biệt rất rõ ràng.

nhà sư hỏi Ngài Ngũ Tổ Diễn: “Thế nào là chuyện nhà Lâm Tế?”

Tổ Diễn nói: “Kẻ phạm tội ngũ nghịch nghe sấm sét!”

Hỏi : “Thế nào là chuyện nhà Vân Môn?”

Đáp : “Cờ hồng sáng lòe”.

Hỏi : “Thế nào là chuyện nhà Quy Ngưỡng?”

Đáp : “Dẹp cái bia ngang lối xưa”.

Hỏi : “Thế nào là chuyện nhà Tào Động?”

Đáp : “Đem thơ chẳng tới nhà”.

Nhà sư làm lễ.

Tổ Diễn nói: “Sao chẳng hỏi chuyện nhà Pháp Nhãn?”

Đáp: “Để lại cho Hòa Thượng”.

Tổ Diễn nói : “Người đi tuần phạm tội đi đêm”.

Ở đây, thiện căn của năm Tông, mỗi Tông đều có chỗ khế hợp riêng. Chẳng phải chỉ có Tổ Động Sơn chỉ dạy Ngài Tuyết Phong đến Tổ Đức Sơn mà thôi.

Từ Tổ Huệ AnTung Sơn chỉ cho Ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng đến ra mắt Đức Lục Tổ, Tổ Thạch Đầu chỉ Ngài Dược Sơn ra mắt Đức Mã Tổ, rồi Đức Mã Tổ chỉ Ngài Đơn Hà đến Ngài Thạch Đầu đều là tùy thuận thiện căn bình đẳng, khiến nương nơi nhân mà phát huy, giữ lấy đường Niết Bàn. Nào có từng cố chấp theo riêng một pháp môn để chứng Cực Quả đâu?

Kinh: “Chân Căn đã thành, mười phương chúng sanh đều là Bản Tánh của mình. Tánh tròn vẹn tựu thành, không bỏ sót một chúng sanh, gọi là Tùy Thuận Đẳng Quán Nhứt Thiết Chúng Sanh Hồi Hướng.

Thông rằng: Thiện căn là cái thiện căn ai cũng sẵn đủ. Nương thiện căn này, giữ lấy đường Niết Bàn thì thiện căn hóa thành Chân Căn vậy. Không còn cái Thiện nào để chỉ ra, độc chỉ một cái Chân Thật, Thể Tánh viên dung toàn khắp Pháp Giới, nên chúng sanh mười phương đều là Bản Tánh của mình. Bản Tánh đã tròn vẹn, đã tự thành tựu, nên gọi là Viên, không ngại mà hội với chúng sanh thành một Thể, nhưng cũng chẳng bỏ mất tướng chúng sanh. Chúng sanh chưa hẳn mỗi mỗi đều thành tựu, nhưng Tánh ta tròn vẹn thì không một chúng sanh nào chẳng phải là Phật Tánh. Bởi thế Tánh tròn vẹn thông suốt tựu thành, cho đến không bỏ sót một chúng sanh nào cả.

Sự Tùy Thuận Đẳng Quán Nhất Thiết Chúng Sanh này thì chẳng kể người, vật, thiện, ác... dưới đến các loài xuẩn động hàm linh đều có Phật Tánh. Không chỉ tùy thuận bình đẳng thiện căn mà thôi, như Ngài Thường Bất Khinh Bồ Tát, gặp ai cũng lễ lạy mà nói : “Tôi chẳng dám khinh các người. Các người đương nhiên sẽ thành Phật”, thật hợp ý chỉ này.

Thiền sư Dục Vương Dụ thượng đường: “Trọn khắp đại địa là con mắt của Sa Môn, khắp mười phương là ánh sáng của tự mình. Vậy thì cớ sao ở Đông Phất Du Đãi đánh trống thì Tây Cù Da Ni chẳng nghe? Nam Thiệm Bộ Châu đốt đèn, Bắc Uất Đơn Việt vẫn tối. Dù cho hướng vào trong ấy nói được đầy đủ thì vẫn còn ở trong bóng dáng mà làm kế sanh nhai!”

Ngài rung cây phất tử, nói: “Trăm thứ tạp nhạp nát rồi, sao là một đường thoát thân?”

Ném cây phất tử đi, nói: “Hãy tham! Chuyện này mà chẳng thực tham, thực chứng, làm sao trộm thấy tin tức của Chân Căn?”

Ngài Tuyết Phong dạy rằng: “Ở đình Vọng Châu đã cùng các ông tương kiến rồi! Ở đỉnh Ô Thạch đã cũng các ông tương kiến rồi! Trước tăng đường đã cùng các ông tương kiến rồi vậy!”

Khi ấy, có nhà sư bước ra hỏi: “Trước tăng đường hãy để đó, còn đình Vọng Châu, đỉnh Ô Thạch chỗ tương kiến là thế nào?”

Tổ Phong hốt nhiên lui về phương trượng.

Đây là thấy được thì mới tin mười phương chúng sanh đều là Bổn Tánh của mình.

Kinh: “Tức cả thảy pháp, lìa cả thảy tướng. Cả Tức và Lìa đều không chỗ dính mắc, gọi là Chân Như Tướng Hồi Hướng.

Thông rằng: Ở trước, nói “Lìa cả thảy tướng, tức cả thảy pháp” ấy là nơi tướng mà lìa tướng, vẫn còn có tướng của pháp vậy. Ở đây, nói “Tức cả thảy pháp, lìa cả thảy tướng” ấy là nơi pháp mà lìa pháp, quên mất cả pháp tướng vậy. Có Tức có Lìa thì tuy không có pháp tướng nhưng chẳng phải không có cái không pháp tướng, đó cũng còn là sự trừ bỏ pháp tướng. Ở đây thì đồng đều là không có, mảy tơ hết sạch, chỉ một Chân Thể như như bất động. Đó gọi là Chân Như Tướng, chẳng thể lấy các thứ tướng như Tướng, Pháp Tướng cho đến sự trừ bỏ Pháp Tướngso sánh được.

Chỗ nói “Lìa cả thảy tướng” tức xem sự lìa Tướng chúng sanh là nhiệm mật. Chỗ nói “Cả hai đều không dính mắc” tức xem sự xa lìa các thứ Lìa là nhiệm mật. Đến đây thì Sở Tri Chướng đã được trong sạch, cái Chân Tánh hiện tiền, đến không từ đâu, đi không về đâu, vốn tự như như, nên gọi là Chân Như.

Thiền sư Dục Vương Dụ thượng đường: “Khi hành bặt mất dấu của hành, khi thuyết không có vết của thuyết. Hành, thuyết mà có chỗ đến ắt có đích sanh ra thì tên liền tới. Hành, thuyết chưa sáng rõ ắt mũi kiếm linh quyết đoán vạch rõ. Dù cho thuyết không có sấm lậu, hành chẳng mê nơi chốn thì vẫn còn vướng mắc ở xác thân. Nếu là đại bàng cánh vàng thì vút lên trăm ngàn do-tuần. Nếu là ngựa Thần Câu thập ảnh thì ruổi nhanh bốn phương tám cõi, chẳng cần thứ lớp ăn uống, chẳng theo chốn mà chôn thân. Tóm lại, chẳng có dựa nương thì lại có cái phần dẫm bước, thực hành không nhỉ? Chốn chốn, mảy mảy, chính là Bờ Giác!”

Lời dạy này có thể nói là đắc cốt tủy Chân Như. Chỗ đó mà được siêu thoát bèn khế hợp Như Như.

Kinh: “Thật đắc Như Như, mười phương không ngại, gọi là Vô Phược Giải Thoát Hồi Hướng.

Thông rằng: Xa lìa các tướng, chỉ một Chân Như thì gọi là Vô Phược, không trói buộc. Còn cái Tướng Chân Như, ấy là còn bị cái Vô Phược trói buộc, chưa thể Vô Ngại, nên chưa là Chân Giải Thoát.

Thật đắc Như Như thì ở đâu cũng Như Như, không còn trệ ngại, ngay cái tướng Chân Như cũng quên mất. Ban đầu trừ bỏ chấp pháp gọi là Hữu Phược Giải Thoát. Nay trừ bỏ cái không chấp pháp gọi là Vô Phược Giải Thoát. Đã không có Phược [Trói buộc] để thoát thì còn có Phược nào nữa? Đã không có chỗ trói buộc thì chỗ nào chẳng Như Như? Cái “Mười phương không ngại” này nếu chẳng đắc cái Tối Chân trong Chân Như thì chẳng đủ sức để nói vậy.

Ngài Lạc Phổ ban đầu làm thị giả của Tổ Lâm Tế. Tổ thường giữa chúng khen Ngài rằng: “Ấy là mũi tên chiếc trong môn hạ Lâm Tế, ai dám đối đầu với mũi nhọn ấy?”

Ngài Lạc Phổ tự cho là đã đầy đủ, từ giã Tổ đi du phương về Nam.

Tổ Lâm Tế nói: “Môn hạ Lâm Tế có con lý ngư sạch chút đỉnh, ngoảy đầu quạt đuôi hướng về phía Nam, chẳng biết hướng về trong hũ dưa muối nhà nào mà chết vùi đây?”

Ngài Lạc Phổ đi du phương xong đến thẳng Giáp Sơn dựng am, suốt năm không hỏi thăm Tổ Giáp Sơn. Tổ bèn viết thơ bảo một vị tăng đưa sang. Lạc Phổ tiếp thơ bèn cất luôn, lại đưa tay đòi nữa, vị tăng không đáp được.

Ngài Lạc Phổ bèn đánh mà nói: “Về nói y lại cho Hòa Thượng”.

Vị tăng về kể lại cho Ngài Giáp Sơn, Tổ nói: “Ông tăng ấy mà mở thơ ra thì trong ba ngày phải đến đây. Còn chẳng mở thơ thì không cứu nổi ông ta rồi”.

Ba ngày sau, quả Ngài Lạc Phổ đến ra mắt Tổ Giáp Sơn, không lễ bái, ngay trước mặt Tổ mà đứng.

Tổ Sơn nói: “Gà nương ổ phụng, chẳng cùng đồng loại. Lui ra!”

Ngài Phổ: “Từ xa nghe tiếng đến đây, xin thầy tiếp đón một lần”.

Tổ Sơn: “Trước mắt không có Xà Lê, nơi đây không có Lão Tăng!”

Lạc Phổ bèn hét: “Một chữ Vô [Không có] cũng chẳng cho lập!”

Tổ Sơn: “Chớ có hấp tấp vội vàng! Phải biết mây, trăng thì đồng, mà núi, khe mỗi khác. Cắt đứt đầu lưỡi thiên hạ thì chẳng phải là không có, còn làm sao dạy người không có đầu lưỡi mở lời?”

Lạc Phổ không có lời đáp.

Tổ Sơn bèn đánh. Lạc Phổ bèn khuất phục. Quả nhiên là hướng vào trong hũ dưa muối của Giáp Sơn mà chết vùi.

Ngài Đầu Tử nêu lên rằng: “Đến trong ấy, làm sao đây? Nói được một câu thì đồng thân, cùng mạng, một hơi thở, liền lá cành!”

Rồi nói thay: “Đôi phụng không mắt đủ năm màu. Vọt lên trời không thấu mây xanh!”

Tụng rằng:

“Người đá không bạn đêm vào núi

Mây lồng đỉnh đỏ áo lục hàn

Hét khai điềm kiếp ba chót đỉnh

Bưng áo vàng [Kim lan] ra, dưới nhật xem”.

Hai câu đầu tụng ý chỉ: Dứt hết đầu lưỡi người trong thiên hạ, chỗ ẩn thân, mất dấu vết.

Hai câu sau tụng ý chỉ: Người không có lưỡi lại mở lời, chỗ mất dấu vết, chớ ẩn thân.

Cái ông Lạc Phổ lộn xộn, chỉ được một cái hàm thiết, đã bị Tổ Lâm Tế khám phá. Giả sử không gặp Tổ Giáp Sơn thì cơ hồ bị cái Vô Phược trói buộctống táng một đời vậy.

Kinh: “Tánh Đức viên thành, hạn lượng về Pháp Giới diệt mất, gọi là Pháp Giới Vô Lượng Hồi Hướng.

Thông rằng: Từ Chân Như Tánh phát khởi cái Đức Dụng. Ba Đức Lý, Trí, Hạnh đều tròn vẹn. Lý, Sự vô ngại, Không, Có đều chẳng phải. Thành tựu thuần nhiên Một Tánh, rốt ráo không còn dấu vết. Ở trước nói “Đến tất cả chỗ” là dường còn cái thấy có hạn lượng [Theo chỗ có sự vật], nên Pháp Giới Tánh chưa lìa hữu lượng. Nay hạn lượng về Pháp Giới diệt mất [Cõi Pháp dứt hết sự vật], nên gọi là Vô Lượng [Không có sự vật].

Tổ Phật Quả Khắc Cần gặp cư sĩ Trương Vô Tận, đàm luận ráo riết về yếu chỉ kinh Hoa Nghiêm.

Tổ nói: “Cảnh giới hiện lượng của Hoa Nghiêm thì Lý, Sự toàn chân. Ngay ban đầu đã không có giả pháp, bởi thế, ngay Một mà Muôn, rõ Muôn là Một, Một trở lại Một, Muôn trở lại Muôn, mênh mông không cùng. Tâm, Phật, chúng sanh cả ba không sai biệt. Cuốn, mở tự tại, vô ngại viên dung. Chỗ này tuy là tột lý, nhưng rốt cuộc cũng là không gió mà nổi sóng vòng vòng!”

Cư sĩ này không lãnh hội nổi, lúc lắc cái giường ngồi.

Tổ Khắc Cần bèn hỏi: “Đến chỗ này thì cùng với ý Tổ Sư từ Tây sang là giống hay khác?”

Cư sĩ : “Dạ, giống”.

Tổ Cần nói: “Hãy được cái chỗ không có giao thiệp”.

Cư sĩ có sắc giận.

Tổ Cần nói: “Chẳng nghe Vân Môn nói “Núi sông đất đai không mảy tơ lầm lỗi”. Đó còn là chuyển cú. “Chẳng thấy một sắc” mới là một nửa đề. Còn phải biết cái toàn đề của thời tiết hướng thượng. Các Tổ Đức Sơn, Lâm Tế há chẳng phải là toàn đề đấy sao?”

Cư sĩ bèn gật đầu đồng ý.

Hôm sau lại bàn về Sự Pháp Giới, Lý Pháp Giới cho đến Sự Lý Vô Ngại Pháp Giới.

Tổ Khắc Cần lại hỏi: “Đây có thể nói thiền chăng?”

Cư sĩ đáp: “Chính nên nói Thiền vậy”.

Tổ cười nói: “Chẳng phải! Chính vì còn trong cái suy lường về Pháp Giới nên hạn lượng về Pháp Giới chưa diệt mất. Nếu vào đến Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới, hạn lượng về Pháp Giới diệt mất, mới nên nói Thiền! Như sao là “Phật là que cứt khô”? Như sao là “Phật là ba cân gai”? Thế nên Tổ Chân Tịnh có kệ rằng:

“Sự Sự vô ngại

Như ý tự tại

Tay nắm đầu heo

Miệng tụng tịnh giới

Lướt khỏi nhà thổ

Chưa trả nợ rượu

Đầu ngã tư đường

Mở banh túi bố !”.

Cư sĩ : “Chỗ luận bàn tuyệt thay! Há dễ được nghe ư?”

Như diệu nghĩa này, chẳng bàn luận sâu xa như vậy thì không thể giãi bày hết yếu chỉ.

Mười địa vị Hồi Hướng ở trên là hồi Chân, hướng Tục, hồi Trí hướng Bi khiến Chân - Tục viên dung, Trí - Bi bất nhị. Đến đây hạn lượng, tình kiến đều đã hồn hóa, mới có thể đăng địa, chứng quả Bồ Tát vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19863)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28976)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20694)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19452)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30511)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36434)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33238)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35578)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20993)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21926)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25264)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25801)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31270)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18566)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25147)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23777)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28949)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20874)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31456)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25553)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29725)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22530)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25725)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23293)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25756)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23729)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40617)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23357)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22456)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22104)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23515)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16972)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23290)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24319)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41114)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19002)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20502)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27731)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38133)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34083)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36795)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24008)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29202)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60167)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27628)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68754)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24542)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24506)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22721)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26378)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26552)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20828)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20070)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27558)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46452)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53592)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23618)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21100)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25593)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29276)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant