Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Bốn: Trừ bỏ ngũ cái

17 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 11578)
Phần Bốn: Trừ bỏ ngũ cái



PHẦN BỐN
TRỪ BỎ NGŨ CÁI


Trước nói ngũ dục là năm điều ham muốn do ngoại trần phát sinh, nay nói ngũ cái là những ý niệm không tốt che lấp tâm thức, không thấy được sáng suốt.

Ngũ cái là: tham dục, sân nhuế, thụy miên, điệu hối và nghi.

1)Tham dục cái:

Là sự che lấp do lòng tham muốn.

Phàm phu chẳng những tham muốn ngoại cảnh hiện tiền mà cả trong lúc ở một mình, cho đến trong lúc tọa thiền, cũng nhớ lại những cảnh ưa thích mà sinh lòng ham muốn.

Người tu hành cần suy xét rằng: sống theo đạo Phật là cốt để được giải thoát khỏi các sự ràng buộc thế gian, nếu tâm còn ham muốn những điều ngũ dục trong thế gian thì quyết không giải thóat được. Các điều ngũ dục, lúc chưa được mà cầu cũng khổ, khi được rồi thì lo sợ nhiều điều và đến khi mất thì buồn rầu tức bực, thật không có gì đáng gọi là vui. Các người tu theo ngoại đạo, còn cố gắng rời bỏ ngũ dục để được lên cõi trời sơ thiền, huống nữa người tu đạo giải thoát muốn ra khỏi ba cõi mà lại không trừ bỏ ngũ dục! Ba cõi như nhà lửa, ở trong nhà lửa mà còn ham chơi bời thì thật là dại dột. Vì thế, người tu hành cương quyết trừ bỏ ngũ dục, chỉ vui với thiền định, với đạo giải thóat, chứ không vui với cái gì khác. Người tu hành phải biết nếu buông lung lòng tham muốn thì không rời khỏi Ba cõi được. Nếu ưa đắm sự dâm dục thì không rời khỏi Dục giới. Nên cương quyết trừ bỏ Tham dục cái.

2. Sân nhuế cái:

Là sự che lấp do lòng hờn giận.

Kẻ phàm phu khi có người khác chọc tức mình, hoặc chọc tức người thân yêu của mình, hoặc khi nghe người khác khen ngợi kẻ thù của mình thì sanh lòng hờn giận. Hờn giận rồi sinh oán thù, làm cho tâm bực tức, rối loạn, mất sự sáng suốt. Đức Phật đã dạy: "Diệt lòng giận thì an vui, diệt lòng giận thì không lo. Lòng giận là cội gốc của các tội ác, lòng giận diệt trừ tất cả hạnh lành". Lòng giận có những tác hại như thế, nên người tu hành cần tu pháp Từ Bi, Nhẫn nhục để diệt trừ, làm cho tâm được thanh tịnh.

3. Thụy Miên cái:

Là sự che lấp do tâm sở thụy miên. Khi trong tâm mờ tối thì gọi là thụy, khi giấc ngủ mê man thì gọi là Miên. Vậy thụy miên tức là thiếp ngủ. Người thế gian sau khi làm việc mệt mỏi, cần ngủ nghiû cho lại sức để về sau có thể tiếp tục làm việc. Người tu hành khi vào thiền định thì tâm thức được nghỉ ngơi hơn cả lúc thiếp ngủ, nên không cần phải ngủ nghỉ nhiều quá. Nếu trong lúc tu thiền định mà cứ muốn thiếp ngủ thì đường tu trễ nải, không do đâu mà giác ngộ được. Mạng người vô thường, mỗi ngày càng đi gần đến cái chết, lẽ đâu tham ngủ mà tự dìm mình mãi trong bể khổ, biết bao giờ ra khỏi, trong lúc đã may mắn học được đạo giải thoát của chư Phật.

4. Điệu hối cái:

Là sự che lấp do tâm sở điệu cử và tâm sở ố tác.

Điệu cử là tâm sở kết đồng với khắp bảy thức trước, đó là một đại tùy phiền não, làm cho móng tâm từ nơi này sang nơi khác, không ở yên được một chỗ. Thân ưa múa men, đi chạy, miệng ưa ngâm nga, cải cọ, ý ưa buông lung, nghĩ việc này sang việc khác. Đó là tác dụng của Điệu cử. Điệu cử phá người tu hành làm cho không nhiếp niệm được, do đó không có thiền địnhtrí tuệ, nên cần phải trừ bỏ.

Ố tácăn năn những việc xấu ác đã làm. Người tu hành, nếu trước có phạm tội lỗi thì cần phải sám hối, và dầu tội nặng, nhưng khi đã thật tâm sám hối thì không nên lo nghĩ gì nữa để cho tâm được an vui, có khả năng tu hành theo chánh pháp. Nếu ôm lòng ăn năn mãi thì lại thành một sự trở ngại cho việc tu tập. Lại có người tu hành mà thắc mắc Điệu cử mà hóa ra ăn năn rồi không muốn tu tập nữa. Tâm sở ố tác này cũng là một trở ngại trên đường tu tập, nên phải diệt trừ.

5. Nghi cái:

Là sự che lấp do lòng nghi ngờ khiến cho tín tâm không vững chắc đối với Phật Pháp, ngăn trở sự tu tập; không có kết quả.

Nghi có ba thứ:

a)nghi mình: nghi mình căn cơ thấp kém, tội lỗi nặng nề, không thể thực hànhchỉ Quán được. Muốn trừ lòng nghi đó, cần nêu rõ tất cả chúng sanh đều có Phật tính và nên xét hiện nay gặp được Phật Pháp không phải là ngẫu nhiên mà là do nhân duyên thiện căn đời trước; thiện căn đó khó mà lường hết được. Vì thế người tu hành không nên tự khinh, nghi mình không thể tu tập Chỉ Quán được.

b)Nghi Thầy: Thấy vị Thầy có một vài chỗ thiếu sót mà nghi rằng vị đó không thể chỉ dạy Phật Pháp được. Lòng nghi nầy thường thường kèm theo với ngã mạn, rất có hại cho sự tu tập Chỉ Quán. Phật đã dạy:" Y pháp bất y nhân". Vị Thầy dẫu thế nào cũng chỉ lặp lại những lời Phật dạy mà thôi. Trong những lời Phật dạy, chỗ nào đã hiểu rõ ràng, nhận là đúng đắn thì đó là pháp thích hợp với căn cơ của mình, cần phải phát lòng tin chắc chắn, không nên vì vị Thầy mà nghi hoặc.

c)Nghi Pháp: Có người nghe được Phật Pháp, tự mình suy xét nhận là đúng đắn, nhưng lại cứ chấp chặt những ý niệm sai lầm của thế gian, đã tiến một bước lại lùi một bước, không phát sinh được lòng chánh tín. Người đó nên biết tội chướng sâu nặng của mình mà phát tâm sám hối, cố gắng suy nghĩ học tập về Phật Pháp nhiều hơn nữa để phát được lòng tin chắc chắn. Chỉ khi nào phát được lòng tin chắc chắn thì trên con đường tu tập mới mong có kết quả.

Ngũ cái là năm sự trở ngại lớn nhất trên con đường thực hành Chỉ Quán. Mặc dầu trần lao phiền não còn nhiều, nhưng trừ được ngũ cái thì tâm đã yên vui thanh tịnh và có khả năng thiết thực để tu tập Chỉ Quán.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14776)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11843)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12774)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10356)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12074)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15305)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11092)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10553)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12485)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16439)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14325)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11804)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14820)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12043)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16868)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11595)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12746)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11354)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12069)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52175)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15480)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13979)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11455)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13193)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12795)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13233)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17927)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12464)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12661)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54220)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14439)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9938)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13831)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58005)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14518)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20160)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13804)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15416)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17506)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13326)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11942)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13499)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14677)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12502)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12163)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12074)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13300)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12551)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13673)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13338)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25616)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12190)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14566)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11872)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42087)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28358)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38831)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14733)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12711)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16254)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant