Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Nhất Thiết Lưu Nhiếp Thủ Nhân

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11947)
Kinh Nhất Thiết Lưu Nhiếp Thủ Nhân


PHẬT NÓI KINH NHẤT THIẾT LƯU NHIẾP THỦ NHÂN


Đại Chánh Tân Tu số 0031 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Hậu Hán, Sa môn An Thế Cao

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


Nghe như vầy:

Một thời Phật tại Pháp Nghị tư duy, Lưu quốc tụ hội, nước Câu Lưu. Bấy giờ Phật bảo các Tỳ kheo; các Tỳ kheo thưa: “Xin vâng”, rồi các Tỳ kheo theo đức Phật để nghe dạy. Ðức Phật bèn dạy:

-Người có trí, có kiến, này Tỳ kheo, nên các lậu được tận diệt, chứ không phải người không có trí, có kiến mà các lậu tận diệt được.

Này Tỳ kheo, sao gọi là người có trí, có kiến mới khiến các lậu được tận diệt, chứ người không trí, không kiến thì các lậu không thể tận diệt được? Ðó là do có chánh tư duy (bổn quán) hay không chánh tư duy (phi bổn quán) mà thôi. Nếu không chánh tư duy thì dục lậu chưa sanh sẽ phát sanh, dục lậu đã sanh liền tăng trưởng; hữu lậu (hữu lưu) và vô minh lậu chưa sanh thì liền sanh, hữu lậuvô minh lậu đã sanh liền tăng trưởng. Nhưng người ngu si, này Tỳ kheo, kẻ thế gian không nghe (chánh pháp), không thấy bậc trí tuệ, cũng không theo bậc trí tuệ để nghe chánh pháp, cũng không theo bậc trí tuệ để được giáo giới, cũng không theo bậc trí tuệ để được phân biệt hiểu rõ. Do đó mới không có chánh tư duy (phi bổn niệm) nên khiến cho dục lậu chư sanh liền sanh, dục lậu đã sanh liền tăng trưởng; hữu lậuvô minh lậu chư sanh liền sanh, đã sanh liền tăng trưởng. Do không biết, không hiểu cho nên pháp không đáng ghi nhớ thì lại ghi nhớ, còn pháp nên ghi nhớ thì lại không ghi nhớ. Do vì pháp đáng ghi nhớ mà không ghi nhớ, pháp không đáng ghi nhớ mà lại ghi nhớ, nên ái lậu chưa sanh liền sanh, ái lậu đã sanh liền tăng trưởng; chưa sanh hữu lậu, vô minh lậu liền sanh; đã sanh hữu lậu, vô minh lậu liền tăng trưởng. Người nghe đệ tử Tỳ kheo đạo đức, nhờ gặp được bậc trí tuệ, theo bậc trí tuệ để thọ giáo, cũng theo bậc trí tuệ để phân biệt hiểu rõ, liền biết pháp như thật. Nếu không chánh tư duy (phi bổn niệm) thì ái lưu (dục lậu) chưa sanh liền sanh, ái lưu đã sanh liền tăng trưởng, chưa sanh hữu lậu, vô minh lậu liền sanh; đã sanh hữu lậu, vô minh lậu liền tăng trưởng. Nếu có chánh tư duy (bổn niệm) thì dục lậu chưa sanh liền không sanh, đã sanh liền xả bỏ. Chưa sanh hữu lậu, vô minh lậu thì không sanh, đã sanh liền xả bỏ. Nếu biết như thật như vậy thì đối với pháp không nên ghi nhớ liền không ghi nhớ, đối với pháp nên ghi nhớ liền ghi nhớ. Nhờ đối với pháp không nên ghi nhớ thì không ghi nhớ, pháp nên ghi nhớ thì ghi nhớ nên khiến cho dục lậu chưa sanh liền không sanh, đã sanh liền xả bỏ, hữu lậu, vô minh lậu chưa sanh thì không sanh, đã sanh liền xả bỏ.

Này Tỳ kheo, có bảy pháp đoạn trừ lậu, phiền não nóng bức và ư sầu. Những gì là bảy? Này Tỳ kheo, hữu lậu được đoạn bởi kiến, hữu lậu được đoạn bởi nhiếp thủ, hữu lậu được đoạn bởi xa lìa, hữu lậu được đoạn bởi dụng, hữu lậu được đoạn bởi nhẫn, hữu lậu được đoạn bởi hiểu, hữu lậu được đoạn bởi ghi nhớ.

Này Tỳ kheo, thế nào là hữu lậu được đoạn bởi kiến? Hãy lắng nghe, này Tỳ kheo, kẻ thế gian ngu si không nghe chánh pháp, không gặp bậc hiền giả, cũng không theo hiền giả để được khai mở, cũng không theo bậc hiền giả để được giáo giới khai mở, do đó đối với pháp không nên ghi nhớ: “Ta có đời trước chăng? Ta không có đời trước chăng? Ðời trước ta làm những gì? Ðời trước ta như thế nào? Ta sẽ có đời vị lai chăng? Ta sẽ không có đời vị lai chăng? Ðời vị lai ta sẽ như thế nào? Ðời vị lai ta sẽ làm gì? Tự nghi thân ta là gì? Con người từ đâu mà đến, rồi sẽ đi về đâu? Cốt lõi của vấn đề này là thế nào?”. Do không chánh tư duy như vậy, trong sáu tà kiến phát sanh, theo đó một tà kiến khởi lên cho rằng: “Quả thật có thân (ngã) này”, “Quả thật không có thân này”. Ðó là nghi sanh, sanh ra kế chấp “thân (ngã)thấy là thân”. Như vậy nghi sanh, sanh ra kế chấp: “Thân là ngã của ta”, hoặc sanh nghi: “Thân sanh tương kiến thân”, hoặc sanh nghi: “Cái không phải thân thấy là thân”, hoặc sanh nghi chấp rằng: “Ðó chính là thân của chính ngã, nó có thể biết, có thể nói, có thể hành động, có thể cảm thọ, có thể nâng lên, có thể đứng dậy, nơi nơi, chốn chốn đã tạo tác, hành động thiện ácthọ tội, nó chấm dứt không sanh hay cũng sanh thì cũng vậy”.


Này Tỳ kheo, bị kiết sử buộc chặt, bị kiết sử (tà kiến) nghi trói buộc, bị ác nghi bất chánh kiến lay động. Này Tỳ kheo, người thế gian không nghe chánh pháp, do đó khổ tập hiện hữu, do đó sự sanh phát hiện. Bậc đa văn Tỳ kheo dạy (đạo) đệ tử: “Ðây là khổ phải nên biết, đây là tập phải nên biết, đây là tận diệt phải nên biết, đây là khổ diệt hành linh diệt phải nên biết”. Biết như vậy rồi, thấy như vậy, ba kiết tận trừ:

1. Thân kiết

2. Nghi kiết

3. Hạnh nguyện kiết.

Do vì ba kiết đã tận trừ liền theo đạo được chuyên nhất, không còn đọa vào ác xứ nữa, liền được thoát khỏi thế gian, ở nhân gian hay thiên thượng không quá bảy lần thọ sanh nữa. Sau bảy lần thọ sanh liền hết khổ. Nếu Tỳ kheo không tri, không kiến liền sanh dục lậu, phiền não ưu sầu. Nếu có tri kiến thì đoạn trừ dục lậu, phiền não ưu sầu, làm cho không còn hiện hữu nữa. Ðó là Tỳ kheo nhờ Kiến mà đoạn trừ hữu lậu.

Này Tỳ kheo, sao gọi là hữu lậu đoạn được nhờ thủ? Ðó la đa văn Tỳ kheo thực hành khi mắt thấy sắc thâu nhiếp nhãn căn để tự phòng hộ, thực hành pháp quán (ố lộ) bất tịnh, nương theo chánh tư duy. Này Tỳ kheo, nếu không phòng hộ nhãn căn, thực hành pháp quán bất tịnh nương theo chánh tư duy thì liền sanh hữu lậu buồn lo, nếu có thâu nhiếp nhãn căn, đình chỉ tâm, nhờ chánh tư duy quán bất tịnh thì phiền não, sầu lo sẽ không có. Ðó là Tỳ kheo đoạn được hữu lậu nhờ Thủ. Ðối với tai, mũi, miệng, thân, ý cũng lại như vậy.

Này Tỳ kheo, sao gọi là hữu lậu đoạn được nhờ Tỵ (tránh né)? Ðó là đa văn Tỳ kheo thực hành cần phải tự phòng thủ, tránh né voi dữ, ngựa chứng, trâu điên, chó dữ, rắn độc, đường hầm hiểm, cây độc, khe độc, nguy hiểm, ao sâu, núi dốc, nơi bất an, sông ngòi, khe sâu, ác tri thức, bạn ác, kẻ mang điều ác, kẻ thọ nhận điều ác, chỗ ác, ngọa cụ để chỗ ác. Này hiền giả, những thứ đó làm cho người không nghi ngờ khiến cho nghi ngờ. Như vậy, Tỳ kheo cần phải tránh né những chỗ như trên đã nói, nếu không xa lìa liền sanh phiền não ưu sầu, nếu xa lìa thì phiền não ưu sầu sẽ không còn nữa. Ðó gọi là Tỳ kheo đoạn trừ hữu lậu nhờ Tỵ.

Sao gọi là Tỳ kheo đoạn trừ hữu lậu nhờ dụng? Ðó là đa văn Tỳ kheo thực hành khi dùng y phục chẳng phải để khoe đẹp, không phải để vui thích, không phải để tham đắm, không phải để trang sức, nhưng chỉ vì khiến cho thân không bị muỗi mòng, gió, nắng, các loại độc tấn công, sanh ra loạn ý, nên cần phải tự phòng thủ. Khi ăn không vì để vui chơi, không do tham lam, không vì để mạnh mẽ, không vì để cho đoan chánh, nhưng chỉ vì để cho thân được tồn tạitu hành. Nhờ sự cúng dường để đoạn trừ bệnh cũ không tái phát, bệnh mới không sanh, được hết bệnh, không tạo tội, có sức, an ổn tu hành. Khi thọ dụng ngọa cụ, giường, chiếu không phải để khoe khoang, không phải để vui thích, không phải để tham đắm, không phải để trang sức, nhưng chỉ vì khiến cho thân này khỏi bị mệt mỏi, đau khổ kịch liệt. Khi thọ dụng thuốc thang không phải để khoe khoang, không phải để vui thích, không phải để tham đắm, không phải để trang sức, nhưng mục đích chỉ để khiến cho thân này chấm dứt được những thống khổ kịch liệt, đau đớn dữ dội, thật khó chịu, nhờ thuốc thang đó mà được cứu thoát. Nếu Tỳ kheo không dùng nó thì liền sanh phiền não ưu sầu, nếu dùng nó thì phiền não ưu sầu sẽ không sanh nữa. Này Tỳ kheo, đó gọi là đoạn trừ hữu lậu nhờ Dụng.

Này Tỳ kheo, sao gọi là hữu lậu đoạn được nhờ Nhẫn? Ðó là đa văn Tỳ kheo khi tu hành phát hạnh tinh tấn để đoạn trừ ác pháp, thọ pháp thanh tịnh, nỗ lực, ra sức, kiên trì phương tiện tinh tấn, không bỏ pháp thanh tịnh. Thà cho thân này da thịt, xương khô kiệt, nát tan cho đến tủy, mỡ, da đều tiêu hủy tất cả, nhưng sự phát tâm tinh tấn vẫn còn. Hãy khiến cho ta kiên tâm can đảm, phương tiện tinh tấn, chừng nào chưa đạt được mục đích mong muốn thì không được nửa chừng mà bỏ tinh tấn. Này Tỳ kheo, hãy nên chịu đựng sự nóng lạnh, đói khát, muỗi mòng, gió nóng, mặt trời bức bách, nghe lời độc ác không thể nói được, người có ý kiêu mạn đối với mình cũng có thể nhẫn chịu được. Nếu thân bị ngộ độc đau đớn, nhức nhối kịch liệt, bất khả ý, không sao chịu nỗi nhưng vẫn nhẫn được. Nếu Tỳ kheo không nhẫn nại thì sanh ra phiền não, sầu lo; nếu nhẫn chịu được thì phiền não ưu sầu sẽ không sanh nữa. Này Tỳ kheo, đó gọi là hữu lậu được đoạn trừ nhờ Nhẫn nại.

Này Tỳ kheo, sao gọi là hữu lậu đoạn được nhờ Hiểu? Hãy nghe! Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đã sanh dục mà không đoạn trừ, không xả ly, đã sanh sân hận mà không đoạn trừ, không xả ly, đã sanh sát sanh, dối láo, trộm cắp mà không đoạn trừ, không xả ly. Này các Tỳ kheo, nếu không hiểu (xả ly) thì sanh ra phiền não, ưu sầu, nếu đã hiểu mà xả ly thì phiền não ưu sầu sẽ không sanh ra nữa. Ðó gọi là các Tỳ kheo đoạn trừ hữu lậu nhờ Hiểu.

Sao gọi là Tỳ kheo đoạn trừ hữu lậu nhờ Hành tăng (tư duy)? Hãy lắng nghe, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo hãy tư duy về giác chi thứ nhất là Niệm. Hãy ngồi một mình, nương vào sự xa lìa pháp ác, phân biệt giác chi cũng như vậy, tinh tấn giác chi cũng như vậy, hỷ giác chi cũng như vậy, ý giác chi cũng như vậy, định giác chi cũng như vậy, cho đến quán sát về khước (xả) giác chi cũng như vậy. Nếu các Tỳ kheo không thực hành pháp tư duy thì liền sanh phiền não, sầu lo. Nếu có thực hành tư duy thì không sanh phiền não ưu sầu nữa. Ðó gọi là các Tỳ kheo đoạn trừ hữu lậu nhờ Hành tăng (tư duy).

Này Tỳ kheo, nếu hữu lậu nhờ Kiến để được đoạn trừ thì hãy dùng Kiến để đoạn. Nếu hữu lậu nhờ Thủ nhiếp để được đoạn trừ thì hãy dùng Thủ nhiếp để đoạn. Nếu hữu lậu nhờ Tỵ để được đoạn trừ thì hãy dùng Tỵ để đoạn. Nếu hữu lậu nhờ Dụng để được đoạn trừ thì hãy dùng Dụng để đoạn. Nếu hữu lậu nhờ Nhẫn để được đoạn trừ thì hãy dùng Nhẫn để đoạn. Nếu hữu lậu nhờ Hiểu để được đoạn trừ thì hãy dùng Hiểu để đoạn. Nếu hữu lậu nhờ Hành tăng để được đoạn trừ thì hãy dùng Hành tăng để đoạn. Ðó gọi là các Tỳ kheo đoạn trừ tất cả lậu, đã hoại diệt sự ác ái của thế gian, đã được thoát khỏi thế gian, xả bỏ sự trói buộc, được chỗ ách yếu lìa khổ.

Ðức Phật thuyết như vậy, các Tỳ kheo nghe đức Phật dạy, hoan hỷ thực hành pháp vượt khỏi thế gian xong, liền đắc đạo

PHẬT NÓI KINH NHẤT THIẾT LƯU NHIẾP THỦ NHÂN

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28978)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20694)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19452)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30513)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36435)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33246)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35580)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20996)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21927)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25267)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25802)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31271)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18567)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25149)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23779)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28949)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20876)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31456)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25554)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29727)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22530)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25728)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23294)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25756)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23732)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40618)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23357)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22460)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22104)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23517)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16972)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23292)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24319)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41114)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19006)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20502)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27732)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38133)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34084)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36797)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24010)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29206)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60168)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27629)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68757)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24543)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24507)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22721)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26379)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26554)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20828)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20074)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27561)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46456)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53592)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23618)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21101)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25597)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29277)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 189032)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant