Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Vua Văn Đà Kiệt

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12443)
Kinh Vua Văn Đà Kiệt


PHẬT NÓI KINH VUA VĂN ÐÀ KIỆT


Đại Chánh Tân Tu số 0040 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Bắc Lương, Tam tạng Pháp sư Ðàm Vô Sấm.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---


Nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại rừng cây ông Kỳ Ðà, vườn ông Cấp Cô Ðộc, nước Xá Vệ. Bấy giờ tôn giả A Nan ở chỗ vắng vẻ, tư duy: “Người thế gian ít có người nhàm chán đối với ngũ dục, còn người không biết nhàm chán ngũ dục cho đến lúc chết thì nhiều”.

Tôn giả A Nan vào lúc xế trưa đi đến trước đức Phật, đảnh lễ xong, bạch đức Phật rằng:

–Con ở chỗ vắng vẻ, tư duy rằng: “Người thế gian ít có ai nhàm chán đối với ngũ dục, còn người không biết nhàm chán ngũ dục cho đến lúc chết thì nhiều”.

Ðức Phật bảo:

–Ðúng như lời A Nan nói, người thế gian biết nhàm chán đối với ngũ dục rất ít, nhưng người không biết nhàm chán đối với ngũ dục cho đến lúc chết thì nhiều”.

Ngày xưa có một vị vua tên là Văn Ðà Kiệt, sanh ra từ trên đảnh đầu của mẹ, cho nên có tên là Văn Ðà Kiệt, về sau làm vua Giá Ca Việt. Nhà vua thống lĩnh cả Ðông, Tây, Nam, Bắc. Vua có bảy báu:

1. Xe vàng

2. Voi trắng

3. Ngựa có sắc xanh

4. Ngọc minh nguyệt

5. Vợ là ngọc nữ

6. Vị thánh làm phụ thần

7. Chủ binh thần làm người dẫn đường.

Vua Tát Giá Ca Việt có bảy báu như vậy. Vua là bậc nhân từ hiền lương, tu theo chánh pháp, không làm phiền nhiễu muôn dân. Vua có ngàn người con trai đều là những người đoan chánh, tài cao, dõng mãnh, sức khỏe, bốn phương thiên hạ đều thần phục nhà vua. Ngài làm vua đến mấy ngàn năm. Trong lòng vua tự nghĩ: “Ta có bốn phương thiên hạ, nhân dân thịnh vượng, lúa thóc dồi dào, nhân dân nhiều người giàu có”. Vua lại tự nghĩ rằng: “Ta có ngàn người con trai đều là bậc đoan chánh không ai bằng, tài cao, dõng mãnh, sức lực. Trời đã vì ta mà mưa tiền bằng vàng, bạc trong bảy ngày bảy đêm, thật sung sướng làm sao! Trời nghe tiếng nói của ta, tùy theo ý nguyện của ta liền mưa tiền bằng vàng, bạc trong bảy ngày bảy đêm”. Nhà vua thấy trời mưa tiền bằng vàng, bạc trong bảy ngày bảy đêm nên rất vui mừng, liền cùng nhân dân vui chơi đến mấy ngàn năm. Nhà vua tự nghĩ: “Bốn phương thiên hạ đều thuộc về ta. Ta có một ngàn người con trai, có bảy báu đều ở trước mặt ta. Ta cầu gì cũng được, mong gì cũng thành. Trời đã không bỏ sót ý nguyện của ta, mà lại vì ta mưa tiền bằng vàng, bạc đến bảy ngày bảy đêm”.

Vua Văn Ðà Kiệt nghe ở phương nam có nước Diêm Phù Ðề rất sung sướng, nhân dân thịnh vượng, ý của vua muốn đến đó. Nhà vua mới nghĩ như vậy thì tất cả bảy báu, bốn thứ binh chủng liền cùng lúc bay đến nước Diêm Phù Ðề; nước này rộng hai mươi tám vạn dặm. Nhân dân nước này thấy vua liền đến, đều quy phục làm thuộc hạ. Do đời trước của vua đã làm điều lành cho nên mới được phước như vậy.

Ở tại nước Cù Da Ni mấy ngàn năm, vua lại sanh ý nghĩ: “Ta có một nước lớn ở phương Tây tên là Cù Da Ni , chu vi ba mươi hai dặm. Ta có bảy báu. Trời đã vì ta mà mưa tiền bằng vàng, bạc trong bảy ngày bảy đêm. Ta có ngàn người con trai đều là bậc đoan chánh không ai bằng, tài cao, dõng mãnh, sức lực. Ta có nước Diêm Phù Ðề ở phương Nam chu vi hai mươi tám vạn dặm”. Nhà vua nghe ở phương Ðông có nước Phất Vu Ðãi, nhân dân thịnh vượng, lúa thóc dồi dào. Nước này có sự an vui lớn, ý vua muốn đến đó. Nhà vua mới sanh ý nghĩ như vậy, thì tất cả bảy báu, bốn thứ binh chủng liền đồng phi hành đến đó. Quốc vươngnhân dân nước này đều quy phục, lệ thuộc đức vua. Ðức vua nhân đó dùng chánh pháp để trị nước, như vậy mấy ngàn năm. Vua lại sanh ra ý nghĩ: “Ta có nước Diêm Phù Ðề rộng hai mươi tám vạn dặm, ta có nước Cù Da Ni rộng ba mươi hai vạn dặm, ta có nước Phất Vu Ðãi rộng ba mươi sáu vạn dặm”. Nhà vua nghe ở phương Bắc có nước Uất Ðơn Việt thiên hạ đại lạc, nhân dân thịnh vượng, ý của vua muốn đến nước đó. Ở trong nước đó không có kẻ bần cùng, không có kẻ giàu người nghèo, kẻ mạnh người yếu, không có nô tỳ, sang hay hèn đều đồng nhau. Nay các người quan thuộc của vua cùng ăn lúa thóc tự nhiên, y phục tự nhiên, trang sức các thứ châu ngọc. Vua mới nghĩ như vậy thì tức khắc bảy báu, bốn thứ binh chủng đồng phi hành vào cõi nước Uất Ðơn Việt. Từ xa trông thấy đất đai bằng phẳng, xanh như sắc lông xanh biếc. Nhà vua hỏi một vị thần bên cạnh rằng:

–Các ngươi có thấy đất đai ở đây bằng phẳng, xanh như sắc lông xanh biếc không?

Những vị quan ở bên cạnh thưa rằng:

–Thưa vâng, thần có thấy.

Vua bảo:

–Ðó chính là vùng đất Uất Ðơn Việt vậy.

Vua vừa đến phía trước lại thấy đất đai ngay thẳng trắng như tuyết, vua lại bảo những vị thần ở bên cạnh:

–Các khanh có thấy đất đai ở đây bằng phẳng toàn là màu trắng chăng?

Những vị thần bên cạnh thưa:

–Dạ vâng, thần có thấy.

Vua bảo:

–Vì vậy cho nên đất ở Uất Ðơn Việt tự nhiên sanh thành lúa gạo đã giã sẵn. Các ngươi hãy cùng nhau ăn lúa gạo ấy.

Nhà vua lại vừa đi trước, từ xa trông thấy các cây báu, trăm thứ báu, y phục, vàng bạc, ngọc bích hoàn, anh lạc đều treo trên cây. Nhà vua bảo những vị thần bên cạnh rằng:

–Các ngươi có thấy các cây báu này chăng?

Những vị thần đứng bên cạnh thưa: -Dạ vâng, thần có thấy.

Vua bảo:

–Vì vậy cho nên trăm thứ cây, y phục, cây vàng, cây bạc, cây ngọc bích hoàn, cây anh lạc các ngươi hãy đến đó lấy nó để dùng.

Nhà vua bèn đến trước nước Uất Ðơn Việt, nhân dân ở đó thảy đều quy phục. Nhà vua cai trị Uất Ðơn Việt hằng mấy ngàn năm liền, tự sanh ra ý nghĩ rằng: “Ta có châu Diêm Phù Ðề, có châu Cù Da Ni, có châu Phất Vu Ðãi, có châu Uất Ðơn Việt cả thảy bốn mươi vạn dặm. Ý ta muốn lên núi Tu Di bốn báu, đến cõi trời Ðao Lợi, chỗ ở của Thiên Vương Thích”. Nhà vua vừa mới nghĩ như vậy thì tất cả bảy báu, trăm quan đều phi hành đến đỉnh Tu Di sơn, liền vào cung của Thiên Vương Thích. Trước tiên Ðế Thích từ xa trông thấy vua Văn Ðà Kiệt đi đến, liền đứng dậy nghinh tiếp, nói rằng:

–Tôi thường nghe công đức của ngài nên muốn cùng ngài tương kiến đã lâu rồi. Nay nhơn giả đã đến đây thật hết sức tốt.

Trời Ðế Thích mời nhà vua cùng ngồi và đã nhường nửa tòa cho vua Văn Ðà Kiệt. Vừa ngồi xong, vua Văn Ðà Kiệt quay đầu nhìn hai bên tả hữuthiên thượng thấy có ngọc nữ đứng hầu, cung điện đều làm bằng bảy báu, kim ngân, lưu ly, thủy tinh, san hô, hổ phách, xa cừ. Thấy rồi trong lòng vua liền nghĩ rằng: “Ta có Diêm Phù Ðề, Cù Da Ni , Phất Vu Ðãi, Uất Ðơn Việt trong cung của ta có mưa tiền bằng vàng bạc trong suốt bảy ngày bảy đêm. Vua Văn Ðà Kiệt tự suy nghĩ rằng: “Hãy khiến cho Thiên Vương Thích chết đi. Ta muốn thay ông để cai trị cõi trời này như khi ta cai trị thiên hạ vậy, khoái thay!”.

Nhà vua mới sanh ý nghĩ như vậy, thần túc liền mất, liền bị trở lại nhơn gian, toàn thân đau đớn, khốn khổ kịch liệt, nằm ở trên giường. Tất cả quần thần quan thuộc theo hầu nhà vua, cả thảy đều ở bên giường, hỏi vua rằng:

–Bệ hạ có di chúc gì chăng?

Vua bảo:

–Nếu có người hỏi các ngươi nhà vua có di chúc những điều gì, các ngươi nên nói rằng: Khi còn tại thế nhà vua cai trị bốn châu thiên hạ, có trời mưa tiền bằng vàng bạc trong suốt bảy ngày bảy đêm. Nhà vua có một ngàn người con trai, bảy báu đều có thể phi hành. Vua còn lên trên cõi trời Ðao Lợi, Thiên Vương Thích đứng dậy nghinh tiếp, hỏi thăm, nhường nửa tòa mời ta ngồi. Ðã được như vậy mà ta còn sanh ra ý muốn chiếm chỗ của Thiên Vương Thích, mới sanh ra ý nghĩ ấy liền bị rơi xuống đất, bị bệnh khốn khổ kịch liệt. Ta tự hối hận nói rằng: “Con người cho đến chết vẫn còn chưa biết nhàm chán đối với dục. Người biết nhàm chán đối với dục rất ít. Kinh nói rằng: “Dù trời mưa tiền bằng vàng bạc trong bảy ngày bảy đêm mà thấy chưa vừa lòng. (Ðối với dục) lợi thì ít mà lỗi thì nhiều. Người có trí tuệ hãy suy tư việc này. Ta lại đã được Thiên Vương Thích nhường cho nửa tòa mà vẫn thấy chưa vừa. Người tu hành cầu đạo, được quả Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật, cho đến được Phật đạo mới nhàm chán dục mà thôi”.

Ðức Phật bảo tôn giả A Nan: “Vua Văn Ðà Kiệt lúc ấy chính là thân của ta vậy”.

Ðức Phật nói như vậy rồi, tôn giả A Nan vui mừng đảnh lễ đức Phật.

 

PHẬT NÓI KINH VUA VĂN ÐÀ KIỆT

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22313)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16032)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15044)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18974)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14457)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18642)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14439)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13601)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13563)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11830)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13279)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13678)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13950)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13261)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15037)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16171)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11094)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16468)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11931)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17611)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12887)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13727)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12867)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14865)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16403)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13142)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12108)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12783)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12931)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12798)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14189)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14141)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16496)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12399)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14402)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11337)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11045)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13204)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13900)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13174)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13015)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13517)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12746)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10242)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13980)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10245)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13715)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16278)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11984)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12990)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11667)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12692)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10811)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11016)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10957)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11909)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12782)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11078)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12635)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11343)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant