Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Vua Văn Đà Kiệt

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12441)
Kinh Vua Văn Đà Kiệt


PHẬT NÓI KINH VUA VĂN ÐÀ KIỆT


Đại Chánh Tân Tu số 0040 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Bắc Lương, Tam tạng Pháp sư Ðàm Vô Sấm.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---


Nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại rừng cây ông Kỳ Ðà, vườn ông Cấp Cô Ðộc, nước Xá Vệ. Bấy giờ tôn giả A Nan ở chỗ vắng vẻ, tư duy: “Người thế gian ít có người nhàm chán đối với ngũ dục, còn người không biết nhàm chán ngũ dục cho đến lúc chết thì nhiều”.

Tôn giả A Nan vào lúc xế trưa đi đến trước đức Phật, đảnh lễ xong, bạch đức Phật rằng:

–Con ở chỗ vắng vẻ, tư duy rằng: “Người thế gian ít có ai nhàm chán đối với ngũ dục, còn người không biết nhàm chán ngũ dục cho đến lúc chết thì nhiều”.

Ðức Phật bảo:

–Ðúng như lời A Nan nói, người thế gian biết nhàm chán đối với ngũ dục rất ít, nhưng người không biết nhàm chán đối với ngũ dục cho đến lúc chết thì nhiều”.

Ngày xưa có một vị vua tên là Văn Ðà Kiệt, sanh ra từ trên đảnh đầu của mẹ, cho nên có tên là Văn Ðà Kiệt, về sau làm vua Giá Ca Việt. Nhà vua thống lĩnh cả Ðông, Tây, Nam, Bắc. Vua có bảy báu:

1. Xe vàng

2. Voi trắng

3. Ngựa có sắc xanh

4. Ngọc minh nguyệt

5. Vợ là ngọc nữ

6. Vị thánh làm phụ thần

7. Chủ binh thần làm người dẫn đường.

Vua Tát Giá Ca Việt có bảy báu như vậy. Vua là bậc nhân từ hiền lương, tu theo chánh pháp, không làm phiền nhiễu muôn dân. Vua có ngàn người con trai đều là những người đoan chánh, tài cao, dõng mãnh, sức khỏe, bốn phương thiên hạ đều thần phục nhà vua. Ngài làm vua đến mấy ngàn năm. Trong lòng vua tự nghĩ: “Ta có bốn phương thiên hạ, nhân dân thịnh vượng, lúa thóc dồi dào, nhân dân nhiều người giàu có”. Vua lại tự nghĩ rằng: “Ta có ngàn người con trai đều là bậc đoan chánh không ai bằng, tài cao, dõng mãnh, sức lực. Trời đã vì ta mà mưa tiền bằng vàng, bạc trong bảy ngày bảy đêm, thật sung sướng làm sao! Trời nghe tiếng nói của ta, tùy theo ý nguyện của ta liền mưa tiền bằng vàng, bạc trong bảy ngày bảy đêm”. Nhà vua thấy trời mưa tiền bằng vàng, bạc trong bảy ngày bảy đêm nên rất vui mừng, liền cùng nhân dân vui chơi đến mấy ngàn năm. Nhà vua tự nghĩ: “Bốn phương thiên hạ đều thuộc về ta. Ta có một ngàn người con trai, có bảy báu đều ở trước mặt ta. Ta cầu gì cũng được, mong gì cũng thành. Trời đã không bỏ sót ý nguyện của ta, mà lại vì ta mưa tiền bằng vàng, bạc đến bảy ngày bảy đêm”.

Vua Văn Ðà Kiệt nghe ở phương nam có nước Diêm Phù Ðề rất sung sướng, nhân dân thịnh vượng, ý của vua muốn đến đó. Nhà vua mới nghĩ như vậy thì tất cả bảy báu, bốn thứ binh chủng liền cùng lúc bay đến nước Diêm Phù Ðề; nước này rộng hai mươi tám vạn dặm. Nhân dân nước này thấy vua liền đến, đều quy phục làm thuộc hạ. Do đời trước của vua đã làm điều lành cho nên mới được phước như vậy.

Ở tại nước Cù Da Ni mấy ngàn năm, vua lại sanh ý nghĩ: “Ta có một nước lớn ở phương Tây tên là Cù Da Ni , chu vi ba mươi hai dặm. Ta có bảy báu. Trời đã vì ta mà mưa tiền bằng vàng, bạc trong bảy ngày bảy đêm. Ta có ngàn người con trai đều là bậc đoan chánh không ai bằng, tài cao, dõng mãnh, sức lực. Ta có nước Diêm Phù Ðề ở phương Nam chu vi hai mươi tám vạn dặm”. Nhà vua nghe ở phương Ðông có nước Phất Vu Ðãi, nhân dân thịnh vượng, lúa thóc dồi dào. Nước này có sự an vui lớn, ý vua muốn đến đó. Nhà vua mới sanh ý nghĩ như vậy, thì tất cả bảy báu, bốn thứ binh chủng liền đồng phi hành đến đó. Quốc vươngnhân dân nước này đều quy phục, lệ thuộc đức vua. Ðức vua nhân đó dùng chánh pháp để trị nước, như vậy mấy ngàn năm. Vua lại sanh ra ý nghĩ: “Ta có nước Diêm Phù Ðề rộng hai mươi tám vạn dặm, ta có nước Cù Da Ni rộng ba mươi hai vạn dặm, ta có nước Phất Vu Ðãi rộng ba mươi sáu vạn dặm”. Nhà vua nghe ở phương Bắc có nước Uất Ðơn Việt thiên hạ đại lạc, nhân dân thịnh vượng, ý của vua muốn đến nước đó. Ở trong nước đó không có kẻ bần cùng, không có kẻ giàu người nghèo, kẻ mạnh người yếu, không có nô tỳ, sang hay hèn đều đồng nhau. Nay các người quan thuộc của vua cùng ăn lúa thóc tự nhiên, y phục tự nhiên, trang sức các thứ châu ngọc. Vua mới nghĩ như vậy thì tức khắc bảy báu, bốn thứ binh chủng đồng phi hành vào cõi nước Uất Ðơn Việt. Từ xa trông thấy đất đai bằng phẳng, xanh như sắc lông xanh biếc. Nhà vua hỏi một vị thần bên cạnh rằng:

–Các ngươi có thấy đất đai ở đây bằng phẳng, xanh như sắc lông xanh biếc không?

Những vị quan ở bên cạnh thưa rằng:

–Thưa vâng, thần có thấy.

Vua bảo:

–Ðó chính là vùng đất Uất Ðơn Việt vậy.

Vua vừa đến phía trước lại thấy đất đai ngay thẳng trắng như tuyết, vua lại bảo những vị thần ở bên cạnh:

–Các khanh có thấy đất đai ở đây bằng phẳng toàn là màu trắng chăng?

Những vị thần bên cạnh thưa:

–Dạ vâng, thần có thấy.

Vua bảo:

–Vì vậy cho nên đất ở Uất Ðơn Việt tự nhiên sanh thành lúa gạo đã giã sẵn. Các ngươi hãy cùng nhau ăn lúa gạo ấy.

Nhà vua lại vừa đi trước, từ xa trông thấy các cây báu, trăm thứ báu, y phục, vàng bạc, ngọc bích hoàn, anh lạc đều treo trên cây. Nhà vua bảo những vị thần bên cạnh rằng:

–Các ngươi có thấy các cây báu này chăng?

Những vị thần đứng bên cạnh thưa: -Dạ vâng, thần có thấy.

Vua bảo:

–Vì vậy cho nên trăm thứ cây, y phục, cây vàng, cây bạc, cây ngọc bích hoàn, cây anh lạc các ngươi hãy đến đó lấy nó để dùng.

Nhà vua bèn đến trước nước Uất Ðơn Việt, nhân dân ở đó thảy đều quy phục. Nhà vua cai trị Uất Ðơn Việt hằng mấy ngàn năm liền, tự sanh ra ý nghĩ rằng: “Ta có châu Diêm Phù Ðề, có châu Cù Da Ni, có châu Phất Vu Ðãi, có châu Uất Ðơn Việt cả thảy bốn mươi vạn dặm. Ý ta muốn lên núi Tu Di bốn báu, đến cõi trời Ðao Lợi, chỗ ở của Thiên Vương Thích”. Nhà vua vừa mới nghĩ như vậy thì tất cả bảy báu, trăm quan đều phi hành đến đỉnh Tu Di sơn, liền vào cung của Thiên Vương Thích. Trước tiên Ðế Thích từ xa trông thấy vua Văn Ðà Kiệt đi đến, liền đứng dậy nghinh tiếp, nói rằng:

–Tôi thường nghe công đức của ngài nên muốn cùng ngài tương kiến đã lâu rồi. Nay nhơn giả đã đến đây thật hết sức tốt.

Trời Ðế Thích mời nhà vua cùng ngồi và đã nhường nửa tòa cho vua Văn Ðà Kiệt. Vừa ngồi xong, vua Văn Ðà Kiệt quay đầu nhìn hai bên tả hữuthiên thượng thấy có ngọc nữ đứng hầu, cung điện đều làm bằng bảy báu, kim ngân, lưu ly, thủy tinh, san hô, hổ phách, xa cừ. Thấy rồi trong lòng vua liền nghĩ rằng: “Ta có Diêm Phù Ðề, Cù Da Ni , Phất Vu Ðãi, Uất Ðơn Việt trong cung của ta có mưa tiền bằng vàng bạc trong suốt bảy ngày bảy đêm. Vua Văn Ðà Kiệt tự suy nghĩ rằng: “Hãy khiến cho Thiên Vương Thích chết đi. Ta muốn thay ông để cai trị cõi trời này như khi ta cai trị thiên hạ vậy, khoái thay!”.

Nhà vua mới sanh ý nghĩ như vậy, thần túc liền mất, liền bị trở lại nhơn gian, toàn thân đau đớn, khốn khổ kịch liệt, nằm ở trên giường. Tất cả quần thần quan thuộc theo hầu nhà vua, cả thảy đều ở bên giường, hỏi vua rằng:

–Bệ hạ có di chúc gì chăng?

Vua bảo:

–Nếu có người hỏi các ngươi nhà vua có di chúc những điều gì, các ngươi nên nói rằng: Khi còn tại thế nhà vua cai trị bốn châu thiên hạ, có trời mưa tiền bằng vàng bạc trong suốt bảy ngày bảy đêm. Nhà vua có một ngàn người con trai, bảy báu đều có thể phi hành. Vua còn lên trên cõi trời Ðao Lợi, Thiên Vương Thích đứng dậy nghinh tiếp, hỏi thăm, nhường nửa tòa mời ta ngồi. Ðã được như vậy mà ta còn sanh ra ý muốn chiếm chỗ của Thiên Vương Thích, mới sanh ra ý nghĩ ấy liền bị rơi xuống đất, bị bệnh khốn khổ kịch liệt. Ta tự hối hận nói rằng: “Con người cho đến chết vẫn còn chưa biết nhàm chán đối với dục. Người biết nhàm chán đối với dục rất ít. Kinh nói rằng: “Dù trời mưa tiền bằng vàng bạc trong bảy ngày bảy đêm mà thấy chưa vừa lòng. (Ðối với dục) lợi thì ít mà lỗi thì nhiều. Người có trí tuệ hãy suy tư việc này. Ta lại đã được Thiên Vương Thích nhường cho nửa tòa mà vẫn thấy chưa vừa. Người tu hành cầu đạo, được quả Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật, cho đến được Phật đạo mới nhàm chán dục mà thôi”.

Ðức Phật bảo tôn giả A Nan: “Vua Văn Ðà Kiệt lúc ấy chính là thân của ta vậy”.

Ðức Phật nói như vậy rồi, tôn giả A Nan vui mừng đảnh lễ đức Phật.

 

PHẬT NÓI KINH VUA VĂN ÐÀ KIỆT

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12507)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10396)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12358)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11661)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28819)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12059)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13019)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11452)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12385)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17455)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53087)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35498)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21409)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10686)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19259)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12425)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26055)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13324)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14391)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16099)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13735)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16856)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17597)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13141)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12544)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11618)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11630)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14515)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20493)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19001)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19592)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18671)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12193)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12331)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13868)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15042)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15047)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13998)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15531)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11408)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17204)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14987)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20224)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14630)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13858)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11717)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15074)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13005)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22897)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14563)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11671)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13176)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16893)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18354)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11952)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11510)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15861)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12895)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18930)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18434)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant