Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Ly Thùy

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12158)
Kinh Ly Thùy


PHẬT NÓI KINH LY THÙY


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0047 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tây Tấn, Tam tạng Trúc Pháp Hộ.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


 

Nghe như vầy:

Một thời Bà Già Bà ở trong vườn Lộc dã, tại Bà Kỳ Thi, Mục Ma Tỷ Lượng.

Bấy giờ tôn giả Ðại Mục Càn Liên ở tại thôn Thiện Tri Thức, nước Ma kiệt. Lúc ấy tôn giả Ðại Mục Càn Liên sống một mình ở nơi yên tĩnh kinh hành nhưng mắc phải chứng buồn ngủ. Ðức Thế tôn biết tôn giả Ðại Mục Càn Liên sống riêng một mình ở nơi yên tĩnh để kinh hành nhưng lại bị buồn ngủ.

Bấy giờ đức Thế tôn đã biết tôn giả Ðại Mục Càn Liên sống riêng một mình ở nơi yên tĩnh để kinh hành nhưng lại bị buồn ngủ rồi, Ngài liền nhập Tam muội chánh thọ Như Kỳ Tương. Nhờ ý tam muội, nhanh như người lực sĩ co duỗi cánh tay trong khoảnh khắc, đức Thế tôn cũng như vậy, Ngài đang ở trong vườn Lộc Dã Bà Kỳ Thi, Mục Na Tỷ Lượng, bổng nhiên biến mất, đi đến thôn Thiện Tri Thức, nước ma Kiệt, đứng trước mặt tôn giả Ðại Mục Càn Liên. Bấy giờ đức Thế tôn xuất định, bảo tôn giả Ðại Mục Càn Liên:

–Này Mục Càn Liên ! Này Mục Càn Liên ! Thầy đang mắc chứng buồn ngủ ?

–Thưa vâng, bạch Thế tôn.

Ðức Phật dạy:

–Vì niệm nào mà gây buồn ngủ thì chớ thực hành tưởng ấy, chớ phân biệt tưởng ấy, chớ có phân biệt nhiều. Như vậy mới lìa được chứng buồn ngủ. Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên, hãy như giáo pháp đã được nghe, như giáo pháp đã được tụng, hãy nên khai triển rộng rãi mà tụng tập. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy như giáo pháp đã được nghe, như giáo pháp đã được tụng, nên rộng nói cho người khác nghe. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy như pháp đã được đọc tụng, như pháp đã được nghe, thì ý phải suy niệm, phải thực hành. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy lấy nước lạnh rửa mắt và dội ướt hết thân thể. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy dùng hai tay xoa lên mép tai. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy đứng dậy đi ra khỏi giảng đường, hãy nhìn khắp bốn phương và hãy nhìn các vì sao. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy ở khoảng đất trống thong thảkinh hành, hãy thủ hộ các căn, ý nghĩ đến các việc phải làm, sau đó khởi đủ các tưởng. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy trở về, không đi kinh hành nữa, trải Ni sư đàn lên trên giường mà ngồi kiết già. Như vậy sẽ lìa được chứng buồn ngủ.

Nếu vẫn không lìa được chứng buồn ngủ, này Mục Càn Liên,hãy trở về giảng đường, gấp tư y Uất đa la tăng trải lên giường, gấp y Tăng già lê làm gối, nằm nghiêng hông bên phải, hai chân chồng lên nhau, hãy khởi minh tưởng (tưởng ánh sáng), đừng để loạn ý, luôn luôn khởi tưởng muốn thức dậy. Này Mục Càn Liên, đừng ham lạc thú giường chõng, đừng ham lạc thú nằm ngủ hông bên phải, đừng ham ngủ nghỉ, đừng ham mùi vị cung kính của thế gian. Vì sao vậy ? Này Mục Càn Liên, vì ta không nói rằng : “Tất cả pháp có thể thân cận (hội hợp)”. Ta cũng không nói rằng : “Tất cả pháp không thể thân cận (hội hiệp)”.

Này Mục Càn Liên, vì sao ta nói : “Tất cả pháp không có thể thân cận ?”. Này Mục Càn Liên, ta nói không thân cận với bạch y. Này Mục Càn Liên, nếu thân cận với bạch y thì phải đàm luận cùng họ mà không tụng tập với họ, nhân đàm luận với họ thì có sự nịnh nọt dối trá, kiêu mạn, nhân có kiêu mạn liền có ganh tị, nhân có ganh tị thì không biết được sự tịch tĩnh. Này Mục Càn Liên, nếu không biết sự tịch tĩnh nên xa lìa tam muội. Này Mục Càn Liên, do đó mà ta nói pháp không thể thân cận.

Này Mục Càn Liên, tại sao ta nói pháp thân cận ? Này Mục Càn Liên, hãy đến chỗ vắng vẻ, lấy nệm cỏ làm giường, im lặng không nói, xa lìa các điều ác, lìa bỏ mọi người, thường phải ngồi tư duy. Này Mục Càn Liên, do đó mà ta nói pháp phải thân cận.

Này Mục Càn Liên, nếu vào thôn xóm để khất thực đừng vì cầu lợi dưỡng, đừng vì cầu được cung kính. Này Mục Càn Liên, hãy chấm dứt cái ý cầu lợi dưỡng, cung kính rồi mới vào thôn xóm khất thực.

Này Mục Càn Liên, khi vào thôn xóm khất thực, hãy đừng khởi ý tưởng vào nhà người khác. Vì sao ? Này Mục Càn Liên, nhà cư sĩ có nhiều việc thế tục. Nếu Tỳ kheo khi vào nhà cư sĩ mà không được họ mời mọc, vị Tỳ kheo kia liền nghĩ như vầy : “Ai đã nói gì với cư sĩ này về ta cho nên cư sĩ mới không nói chuyện với ta”. Vị ấy liền có tâm sân hận, vì có tâm sân hận nên liền có cống cao, vì có cống cao nên tâm không tịch tĩnh. Này Mục Càn Liên, vì ý không tịch tĩnh liền xa lìa tam muội.

Này Mục Càn Liên, nếu lúc thuyết pháp đừng nghĩ chuyện được thua, hãy có ý nghĩ là không thắng. Nếu có ý tranh thắng thì liền có nhiều lời, vì có nhiều lời liền có cống cao, do vì cống cao nên có tật đố, nhân vì tật đố nên không tịch tĩnh. Này Mục Càn Liên, vì không tịch tĩnh nên ta nói xa lìa tam muội.

Này Mục Càn Liên, nếu lúc thuyết pháp phải nói lời có ích, phải nói lời quyết định, chớ đừng nói gì khác. Hãy đàm luận như tiếng rống của con sư tử. Như vậy, Này Mục Càn Liên, hãy nên học như vậy.

Bấy giờ tôn giả Ðại Mục Càn Liên từ chỗ ngồi đứng dậy, đứng qua một bên, đắp y, chắp tay hướng về đức Thế tôn, bạch đức Thế tôn rằng : “Thưa vâng, bạch Thế tôn ! Thế nào là vị Tỳ kheo đến chỗ cứu cánh, cứu cánh vô cấu, cứu cánh hành phạm hạnh ?”.

Ðức Thế tôn bảo : “Này Mục Càn Liên ! Nếu Tỳ kheo bị bệnh đau đớn, hoặc cảm thọ khổ, cảm thọ lạc, hay không khổ không lạc. Vị Tỳ kheo ấy hãy nên quán sự đau đớn ấy là vô thường, hãy quán nó là bại hoại, hãy quán nó là vô nhiễm, hãy quán nó là tận diệt, hãy quán nó là chỉ (xả), hãy quán nó là chỗ dừng nghỉ. Hãy quán sự đau đớn ấy như vậy. Hãy quán sự đau đớn ấy là vô thường trụ, hãy quán nó là bại hoại, hãy quán nó là vô nhiễm, hãy quán nó là tận diệt, hãy quán nó là chỉ, hãy quán nó là trụ vững. Vị ấy liền không đắm trước thế gian này, vì không đắm trước nên không sợ sệt, nên được Hữu dư Niết bàn. Sự sanh đã hết, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, biết rõ về danh sắc. Này Mục Càn Liên, đó là Tỳ kheo đạt đến cứu cánh, cứu cánh vô cấu, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh hành phạm hạnh.

Ðức Phật nói như vậy, tôn giả Ðại Mục Càn Liên nghe đức Phật dạy như vậy hoan hỷ vui mừng

PHẬT NÓI KINH LY THÙY

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22312)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16031)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15042)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18974)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14456)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18641)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14438)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13600)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13562)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11830)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13277)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13676)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13949)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13259)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15037)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16170)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11091)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16468)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11929)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17609)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12885)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13725)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12867)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14864)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16402)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13139)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12106)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12782)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12928)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12798)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14187)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14140)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16494)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12391)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14400)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11335)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11045)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13203)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13900)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13173)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13013)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13517)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12745)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10241)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13979)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10245)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13713)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16277)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11980)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12990)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11664)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12692)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10808)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11015)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10955)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11908)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12777)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11077)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12634)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11343)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant