Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Khổ Ấm Nhân Sự

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11544)
Kinh Khổ Ấm Nhân Sự


PHẬT NÓI KINH KHỔ ẤM NHÂN SỰ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0055 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tây Tấn, Sa môn Thích Pháp Cự.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


Nghe như vầy:

Một thời Bà Già Bà ở trong vườn Ni Câu Lâu, thành Ca Duy La Bà, Thích Ky Ðề (dòng sát Ðế Lợi). Bấy giờ Thích Ma Ha Năng Cừ, sau buổi trưa thung dung đi đến chỗ đức Thế Tôn. Khi đến xong đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn, ngồi qua một bên. Thích Ðại lực sĩ (Thích Ma Ha Năng Cừ) ngồi qua một bên xong, bạch đức Thế Tôn:

–Như những pháp mà đức Thế Tôn dạy con đều biết hết. Ðó là ba ý niệm trói buộc: ý dâm trói buộc, ý sân hận ngu si trói buộc. Như vậy, những pháp mà đức Thế Tôn dạy con đều biết. Nay đây con đã sanh sự dâm dục dính mắc nơi ý mình, đã sanh sự sân hậnngu si dính mắc nơi ý mình. Cho nên, bạch đức Thế Tôn, con đã nghĩ như vầy: “Ta có pháp gì chưa chấm dứt mà khiến ta sanh ra dâm dục đắm trước nơi ý? Sanh ra sự sân hận, ngu si đắm trước nơi tâm ý?”.

Ðức Phật dạy:

–Này Ðại lực sĩ, pháp chưa chấm dứt, khiến cho người ở tại gia cũng không học đạo, không tin thích việc xuất gia, bỏ gia đình. Này Ðại lực sĩ, nếu pháp này chấm dứt thì ngươi cũng muốn ở tại gia, chắc chắn ngươi có thể tin thích xuất gia, bỏ nhà học đạo. Này Ðại lực sĩ, pháp ấy vì chưa chấm dứt cho nên mới khiến ngươi ở tại gia, không tin thích xuất gia, bỏ nhà học đạo.

Bấy giờ Thích Ðại lực sĩ từ tòa đứng dậy, đứng qua một bên, đắp y, chắp tay hướng về đức Thế Tôn bạch rằng:

-Như vậy, nay con đối với đức Thế Tôn có sự tín thích, cúi mong đức Thế Tôn khéo vì con thuyết pháp. Nhờ thấy pháp mà chấm dứt được nghi ngờ.

Ðức Phật bảo:

Này Ðại lực sĩ, có năm dâm dục, ái niệm, ái sắc, gần với dâm, nhiễm trước: mắt biết sắc, tai biết tiếng, mũi biết mùi, lưỡi biết vị, thân biết nhiễm trước vật mịn trơn. Ở trong các thứ ấy mà tự vui thích, ái lạc mùi vị, vui thích trong đó. Như vậy, này Ðại lực sĩ, ở trong cái khí vị dâm có nhiều bại hoại. Thế nào, này Ðại lực sĩ, đối với dâm có nhiều bại hoại? Này Ðại lực sĩ, nếu người con nhà dòng dõi học tập nghề nghiệp khéo léo để tự bảo tồn mạng sống: hoặc cày ruộng, hoặc mua bán, hoặc sao chép sách, hoặc học số, hoặc học toán, hoặc học in ấn, hoặc học thơ, hoặc học làm đồ gốm, hoặc dạy học, hoặc được vua chiêu mộ. Những người ấy bị sự lạnh buốt bức bách, sự nóng lạnh thiêu đốt, phải nhẫn chịu sự đói khát dày vò, bị muỗi mòng, chí rận chích đốt, họ mong cầu tiền tài. Người con nhà dòng dõi kia, như vậy, khởi ra việc làm như vậy, siêng năng làm việc như vậy, nhưng vẫn không thể kiếm ra tiền. Kẻ ấy liền ưu sầu, không vui, khóc lóc, tự đánh, tự đập thân mình, tăng thêm sự ngu si, siêng năng làm việc mà không có kết quả.

Nếu người con nhà dòng dõi kia khởi ra như vậy, tạo tác như vậy, siêng năng làm việc như vậy, kẻ ấy được nhiều tiền tài. Khi được tiền tài rồi liền giữ gìn đừng cho tiền tài này bị vua chiếm đoạt, đừng để giặc cướp, đừng để lửa cháy, đừng để hư mục, làm lợi, đừng để bị thất lợi. Kẻ ấy gìn giữ tiền của như vậy nhưng vẫn bị vua chiếm đoạt, giặc cướp, lửa cháy, bị tiêu hủy, làm lợi bị thất lợi. Kẻ ấy liền ưu sầu, không vui, khóc lóc, tự đánh, tự đập thân mình, chỉ thêm sự ngu si.

Lại nữa, sự ưa thích lâu dài chắc chắn sẽ bị bại hoại. Do đó, này Ðại lực sĩ, hiện thân đời này là đại khổ ấm. Nhân vì dâm nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, chính nhân duyên của dâm này, này Ðại lực sĩ, chúng sanh nhân vì dâm đưa đến điều kiện hổ trợ dâm. Nhân vì dâm mà mẹ tranh với con, con tranh với mẹ, cha tranh với con, con tranh với cha, anh tranh với em, em tranh với anh. Họ đấu tranh với nhau: mẹ nói con sai, con nói mẹ sai, cha nói con sai, con nói cha sai, anh nói em sai, em nói anh sai. Huống chi là đối với người ngoài?

Này Ðại lực sĩ, đó là khổ ấm hiện nay vậy. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm. Này Ðại lực sĩ, nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, do đó vua tranh với vua, Bà la môn tranh với Bà la môn, cư sĩ tranh với cư sĩ, giặc cướp tranh với giặc cướp, thợ thuyền tranh với thợ thuyền. Họ đấu tranh với nhau tạo ra đủ thứ dụng cụ để chiến đấu. Hoặc dùng tay đánh, hoặc dùng đá ném, hoặc dùng dao đâm, gậy đập, trong đó có người chết, hoặc khổ gần chết. Này Ðại lực sĩ, đó chính là khổ ấm hiện tại này. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm.

Này Ðại lực sĩ, chúng sanh nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, cho nên mới mặc áo giáp, mang cung tên, mang áo giáp bằng da, cầm dao thật bén, vây nhau mà đánh. Trong lúc đó hoặc dùng voi để đấu, hoặc dùng ngựa, hoặc dùng xe, hoặc dùng bộ binh, hoặc dùng đàn bà, hoặc dùng đàn ông, trong lúc đó hoặc có người chết, hay khổ gần chết. Ðó chính là, này Ðại lực sĩ, khổ ấm hiện tại. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm.

Này Ðại lực sĩ, chúng sanh nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, cho nên mới mặc áo giáp, mang cung tên, mang áo giáp bằng da, cầm dao thật bén, đi đến thành thật cao ý muốn cong phạt. Những kẻ ấy trong lúc đó, hoặc thổi vào vỏ ốc (thổi tù và), hoặc đánh trống, hoặc dùng tiếng kêu gọi, hoặc dùng chày sắt, hoặc dùng xoa, hoặc dùng kích, hoặc dùng bánh xe bén, hoặc dùng tên bắn lẫn nhau, hoặc xô đá chạy loạn xạ, hoặc dùng nỏ, hoặc lấy nước đồng sôi mà đổ, trong đó có người chết, hay khổ gần chết. Này Ðại lực sĩ, đó chính là khổ ấm hiện nay vậy. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm.

Này Ðại lực sĩ, chúng sanh nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, đi đến thành ấp của vua, hoặc xuyên qua tường, phá kho, hoặc ăn cắp đồ vật của người khác, hoặc đánh hoặc chận đường của người khác, phá thành người khác, phá thôn, giết người, kẻ ấy bị quan Hữu Ty bắt được hành xử đủ điều khổ sở, hoặc chặt tay, hoặc chặt chân, hoặc cắt tai, hoặc xẻo mũi, hoặc cắt lưỡi, hoặc bứt búi tóc, hoặc bứt tóc, hoặc bứt cả tóc và búi tóc, hoặc bỏ vào trong hòm, hoặc lấy áo phủ lại rồi giết, hoặc lấp cát đá lên trên, hoặc phủ cỏ lên trên, hoặc bỏ trong miệng con lừa bằng sắt, hoặc bỏ trong miệng con sư tử bằng sắt, hoặc bỏ vào trong cái chảo bằng đồng, hoặc bỏ trong chảo bằng sắt, hoặc cắt ra từng đoạn, hoặc dùng dao bén đâm vào hai tay, hoặc nằm trên giường bằng sát nóng, hoặc dùng dầu sôi mà rưới, bỏ vào cối lấy chày sắt mà giã, hoặc cho rắn cắn, hoặc lấy gậy đập, hoặc dùng cây phan, hoặc dẫn đến dưới cây nêu lấy dao cắt đầu. Này Ðại lực sĩ, đó chính là khổ ấm hiện tại vậy. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm.

Này Ðại lực sĩ, chúng sanh nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, tạo thân khổ hạnh, miệng, ý khổ hạnh. Lúc ấy hoặc bị tai hoạn bệnh khổ, nằm ở trên giường, nằm ở trong bóng mát, thân bị bệnh, cực khổ, đau đớn, không vui, mạng sống muốn chấm dứt. Kẻ ấy thân hành khổ hạnh, miệng, ý hành khổ hạnh, đến lúc mạng chung bị treo ngược hai chân lên trời, đầu chúc xuống đất, như lúc hoàng hôn, mặt trời muốn lặn xuống ngọn núi lớn, xuống giữa ngọn núi lớn thì bóng hòn núi ấy ngã dài xuống dưới đất cũng như vậy. Ðó là kẻ kia thân hành khổ hạnh, miệng hành khổ hạnh, ý hành khổ hạnh, đến lúc mạng chung bị dốc ngược đầu xuống đất. Kẻ ấy nghĩ như vầy: “Thân ta khổ hạnh, miệng khổ hạnh, ý khổ hạnh này bị treo ngược đầu dưới đất bởi ta vốn không thực hành, vốn không làm phước, ta chỉ làm điều tội ác. Vì thích làm ác, tham lam, làm điều hung bạo, không làm hạnh phước, không làm hạnh thiện, không làm chỗ để sau quay về, chắc chắn phải đọa vào ác thú, lúc đó liền có sự thay đổi, hối hận. Thay đổi hối hận rồi, vì sanh bất thiện cho nên cũng là bất thiện. Này Ðại lực sĩ, đó chính là khổ ấm hiện tại. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm.

Này Ðại lực sĩ, chúng sanh nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm, tạo tác thân khổ hạnh, khẩu và ý khổ hạnh. Kẻ ấy tạo thân khổ hạnh rồi, tạo khẩu, ý khổ hạnh rồi, do nhân đó, duyên đó khi thân hoại mạng chung sanh trong Nê Lê ác thú. Chính đó, này Ðại lực sĩ, chính là khổ ấm của thân này ở đời sau. Nhân dâm cho nên đưa đến điều kiện hổ trợ dâm. Này Ðại lực sĩ, chính là do năm khí vị dâm mà có nhiều khổ, bại hoại.

Còn Thánh đệ tử thì không như vậy, có tri kiến như chơn, không có hỷ lạc đối với dâm, vì nó tạo ra pháp ác bất thiện. Ðó gọi là Vô thượng tịch tĩnh. Như vậy, này Ðại lực sĩ, Thánh đệ tử cùng tương ưng với dâm pháp như vậy. Lại nữa, này Ðại lực sĩ, ta ít thích dâm, biết nó là khổ, biết nó là bại hoại. Ðó là tri kiến như thật của ta, ta cũng không đối với sự dâm mà tạo ra pháp ác bất thiện, nhờ đó mà ta được an lạc. Gọi đó là Vô thượng tịch tĩnh. Này Ðại lực sĩ, như vậy ta không tương ưng với dâm pháp.

Này Ðại lực sĩ, có một thời ta ở trong hang Thất Diệp, Bệ Ðà Niệu Chỉ Hữu Hiếp, nước La Duyệt Kỳ. Này Ðại lực sĩ, sau lúc xế chiều ta đứng dậy đi đến bên Chỉ Hữu Hiếp, ta ở trong đó, từ xa trông thấy các Ni Kiền, họ thường không ngồi mà thường quỳ, là hạnh rất thống khổ. Ta đến chỗ họ, đến xong nói với họ rằng: “Vì sao? Này Ni Kiền, lại thường quỳ như thế này mà không thường ngồi? Làm cái điều hết sức khổ hạnh như vậy?”. Họ đáp rằng: “Này Cù Ðàm, có thầy Ni Kiền thân tộc tử nói như vầy: Này các Ni Kiền, (chúng ta vốn tạo các ác hạnh) nay làm pháp khổ hạnh này sẽ tiêu trừ các ác hạnh kia. Ðó là nay thân nghiệp hành, khẩu, ý nghiệp hành, nếu có điều ác hãy đừng làm”. Ta nói với họ: “Này các Ni Kiền, vì sao các ngươi đối với thầy Ni Kiền thân tộc tử mà các ngươi có thể tin, có thể nhận lời của vị ấy được? Sao lại không nghi ngờ vị thầy kia?”. Họ trả lời rằng: “Này Cù Ðàm, vị thầy Ni Kiền thân tộc tử của chúng tôi, chúng tôi không nghi ngờ vị thầy ấy, vì vị ấy có thể tin, có thể chấp nhận được”. Ta đáp lại họ rằng: “Như vậy, như các Ni Kiền của các ngươi, có Ni Kiền, có Ni Kiền kia vốn đã tạo ác hạnh, nên phải làm khổ hạnh cùng cực. Ni Kiền kia chết rồi đời sau sanh ở nhân gian sẽ cũng lại học ở trong Ni Kiền này, phải thường quỳ, không ngồi làm khổ hạnh như vậy, như nay các ngươi đang làm sao?”. Họ nói như vầy:

–Này Cù Ðàm, không theo thiện hạnh vẫn được thiện báo. Vua Tần Phù Bà sống an trụ trong an lạc, còn Sa môn Cù Ðàm thì không được như vậy.

Ta đáp:

–Này các Ni Kiền, các ngươi nói như vậy là không đúng. Vì sao vậy? Vì kẻ phàm phu ngu si, bất định, không thiện, không nhàm chán, không biết đủ mới nói rằng: “Vua Tần Phù Bà thường ở nơi thiện, thường được an lạc, còn Sa môn Cù Ðàm thì không được như vậy”. Này các Ni Kiền, nên phải trước nhất là biết ta, tại sao ta thường ở trong sự an lạc mà nói: “Vua Tần Phù Bà hay Sa môn Cù Ðàm?”. Này các Ni Kiền, ta sẽ nói cho các ngươi biết, ta là người khéo sống trong sự an lạc chứ không phải là Vua Tần Phù Bà nước Ma Kiệt. Các ngươi không nên nói như vầy: “Vua Tần Phù Bà nước Ma Kiệt thường sống trong sự an lạc chứ không phải Sa môn Cù Ðàm mà có thể sánh kịp, này Sa môn Cù Ðàm!”.

Nay ta hỏi các ngươi:

–Ai là người khéo sống trong sự an lạc, vua Tần Phù Bà hay Sa môn Cù Ðàm? Ý của các Ni Kiền thế nào? Vua Tần Phù Bà nước Ma Kiệt đã được tự tại về miệng và ý chăng? Trong bảy ngày bảy đêm thân đã hoàn toàn an trụ trong an lạc chăng?

Các Ni Kiền thưa:

–Chẳng được vậy, thưa Cù Ðàm.

Ðức Phật hỏi tiếp:

–Hoặc sáu ngày, năm ngày, bốn ngày, hai ngày hoặc một ngày một đêm vua được tự tại về miệng và ý chăng? Thân đã hoàn toàn được sống trong sự an lạc chăng?

–Thưa Cù Ðàm, không được.

Ý của các Ni Kiền thế nào? Ta đã được tự tại về miệng và ý chăng? Trong một ngày một đêm, thân của ta có sống trong sự an lạc chăng?

–Ðược, thưa Cù Ðàm.

–Từ hai, ba cho đến bảy ngày bảy đêm miệng và ý của ta có được hoàn toàn khéo sống trong sự an lạc chăng?

–Ðược, thưa Cù Ðàm.

–Ý của các Ni Kiền thế nào? Ta và vua, ai thường khéo sống trong sự an lạc, vua Tần Phù Bà nước Ma Kiệt hay là ta?

–Như chúng tôi nhờ Sa môn Cù Ðàm thuyết giảng nên biết được nghĩa này. Chính Sa môn Cù Ðàm mới là người khéo sống trong an lạc, chứ không phải vua Tần Phù Bà nước Ma Kiệt.

–Này Ðại lực sĩ, hãy giảm thiểu sự dâm, biết nó có nhiều sự khổ, trong sự bại hoại thì nó có nhiều bại hoại nhất. Do đó nên Thánh đệ tử dùng trí tuệ để thấy như chơn, nên đối với dâm, pháp ác bất thiện không hỷ lạc chúng được. Ðó là sự Vô thượng tịch tịnh.

Như vậy, này Ðại lực sĩ, Thánh đệ tử tương ưng cùng pháp dâm như vậy.

Lại nữa, này Ðại lực sĩ, ta giảm thiểu mùi vị dâm vì nó có nhiều khổ, biết nó là bại hoại. Ðó là ta dùng trí tuệ bình đẳng thấy như chơn, cũng không đối với sự dâm mà có tạo pháp bất thiện, chỉ chuyên thủ hộ để được tự vui. Ðó là sự tịch tĩnh Vô thượng. Như vậy, này Ðại lực sĩ, ta không tương ưng cùng pháp dâm.

Ðức Phật dạy như vậy, vị Ðại lực sĩ ấy cùng các Tỳ kheo đã nghe đức Thế Tôn dạy xong, vui mừng hoan hỷ.

 

PHẬT NÓI KINH KHỔ ẤM NHÂN SỰ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16317)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 23508)
Tại Gia Bồ Tát Giới Bổn - 3 ngôn ngữ Anh, Việt, Hoa - Nhiều Tác Giả
(Xem: 17415)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 81208)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19536)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20136)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 47392)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39101)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15787)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23094)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19194)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15083)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 16734)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 12969)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13103)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 48896)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 23196)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19311)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 17103)
Luật Học Tinh Yếu - Muốn qua sông phải nhờ thuyền bè, muốn vượt bể khổ sinh tử phải nương nhờ Giới pháp... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 32002)
Cúi đầu lễ chư Phật, Tôn Pháp, Tỳ-kheo Tăng, Nay diễn pháp Tỳ-ni, Để Chánh pháp trường tồn... HT Thích Trí Thủ dịch
(Xem: 27413)
Luật Tứ Phần - Việt dịch: HT Thích Đổng Minh; Hiệu chính và chú thích: Thích Nguyên Chứng, Thích Đức Thắng
(Xem: 14288)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 14719)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18561)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16362)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 13876)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17209)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 19343)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 27967)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 14351)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16903)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 22141)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23264)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 27937)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 64724)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33163)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40121)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 25054)
Luật nghi của Đức Thế Tôn chế định vì bảo hộ Tăng-già, thanh qui của Tùng Lâm đặt định để thành tựu pháp khí cho già lam, pháp thức hành trì cho cư gia phật tử để xây nền thiện pháp...
(Xem: 50155)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38455)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 27285)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 28519)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52153)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35812)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32834)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50747)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 74827)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36078)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 48938)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 30985)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33880)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 28851)
Trải qua nửa thế kỷ thuyết pháp độ sinh, Ðức Ðạo sư đã hóa độ đủ mọi hạng người, không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, sang hèn... Thích Phước Sơn
(Xem: 58769)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46221)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43772)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43165)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45859)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 47976)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 63649)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 49657)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant