Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Chư Pháp Bổn

14 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 11773)
Kinh Chư Pháp Bổn


PHẬT NÓI KINH CHƯ PHÁP BỔN 


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0059 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tây Tấn Sa Môn Pháp Cự.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 

Nghe như vầy:

Một thời Bà Già Bà ở trong vườn Lộc Dã Bà Kỳ Thi Mục Ma Lâm Tỷ Lượng. Bấy giờ tôn giả Xá Lợi Phất bảo các Tỳ kheo:

–Này chư hiền, hiện tại có thể biết thế gian có bốn loại người.

–Những gì là bốn?

–Này chư hiền, hoặc có người bên trong có cầu dục (ô uế), kẻ ấy bên trong có cầu dục mà không biết rõ. Này chư hiền, hoặc có người bên trong có cầu dục, kẻ ấy bên trong có cầu dục nhưng tự biết rõ. Này chư hiền, hoặc có người bên trong không có cầu dục, kẻ ấy bên trong không có cầu dục nhưng không tự biết rõ. Này chư hiền, hoặc có người bên trong không có cầu dục, kẻ ấy bên trong không có cầu dục nhưng tự biết rõ.

–Này chư hiền, hoặc có người bên trong có cầu dục, kẻ ấy bên trong có cầu dục mà không tự biết rõ, ta nói kẻ ấy là người hết sức tệ ác.

–Này chư hiền, hoặc có người bên trong có cầu dục, kẻ ấy bên trong có cầu dục nhưng tự biết rõ, ta nói kẻ ấy là tối thắng.

–Này chư hiền, hoặc có người bên trong không có cầu dục, kẻ ấy bên trong không có cầu dục mà không tự biết rõ, ta nói kẻ ấy là người hết sức tệ ác.

–Này chư hiền, hoặc có người bên trong không có cầu dục, kẻ ấy bên trong không có cầu dục nhưng tự biết rõ, ta nói kẻ ấy là người tối thắng.

Khi ấy có một Tỳ kheo khác từ tòa đứng dậy, sửa lại y phục, chắp tay hướng về tôn giả Xá Lợi Phất thưa tôn giả rằng:

–Thế nào thưa tôn giả Xá Lợi Phất, do nhân duyên gì mà hai người đầu, cùng có cầu dục (ô uế), đều có tham trước mà ngài nói một người thì tệ ác, còn một người thì lại tối thắng? Lại có nhân duyên gì mà hai người sau này, đều không có cầu dục, đều không có tham trước mà ngài nói một người thì tệ ác, còn một người thì lại tối thắng?

–Này chư hiền, hoặc có một người bên trong có cầu dục, kẻ ấy bên trong có cầu dục không biết rõ, nên biết kẻ ấy không khởi lên ước muốn, cũng không cố gắng, cũng không tinh tấn (để diệt trừ dục tham ấy), kẻ ấy an trụ cầu dục, họ sẽ từ trần trong khi còn cầu dục, ý tham trước. Kẻ ấy đã từ trần trong khi còn cầu dục, ý tham trước, vì mạng chungbất thiện, sẽ không được sanh đến chỗ lành. Vì sao như vậy? –Vì kẻ ấy mạng chung mà còn cầu dục, ý tham trước vậy. Giống như, này chư hiền, có người hoặc ở chợ búa, hoặc ở nhà thợ rèn mang một cái bát bằng đồng về, dơ nhớp bất tịnh. Kẻ ấy đã mang bát đồng về rồi mà cũng không tùy thời rửa sạch, không tùy thời lau chùi, cũng không tùy thời mài cọ, chỉ để trong bụi bặm. Cái bát đồng này như vậy chỉ tăng thêm sự cấu uế. Như vậy, này chư hiền, hoặc có người bên trong có cầu dục, kẻ ấy bên trong có cầu dục mà không tự biết rõ, nên kẻ ấy cũng không khởi lên ước muốn, cũng không cố gắng, cũng không tinh tấn (để diệt trừ cầu dục ấy). Kẻ ấy chỉ an trú nơi dục cầu. Kẻ ấy sẽ mạng chung trong khi ý còn tham trước, mạng chung mà bên trong ý còn tham trước, khi chết rồi sẽ bất thiện và sẽ không được sanh đến chỗ lành. Vì sao vậy? –Vì kẻ ấy mạng chung mà bên trong còn cầu trước còn cầu dục vậy.

–Này chư hiền, hoặc có người bên trong có cầu dục, kẻ ấy bên trong có cầu dục nhưng biết rất rõ, nên biết kẻ ấy sẽ khởi lên ước muốn, sẽ tinh tấn diệt trừ thì sự cầu dục của kẻ ấy sẽ đình chỉ. Kẻ ấy không có ý cầu dục, vì không có ý cầu dục cho nên khi mạng chung mà không tham trước. Kẻ ấy không có ý tham trước, đã mạng chung mà không có ý tham trước nên cái chết ấy cũng tốt đẹp mà chỗ được sanh đến cũng tốt đẹp. Vì sao vậy? –Vì kẻ ấy không có cầu dục, không có ý tham trước vậy. Giống như, này chư hiền, có người hoặc ở chợ búa hay ở nhà thợ rèn, mang cái bát bằng đồng đầy bụi bặm ô uế về. Kẻ ấy mang cái bát về rồi tùy thời rửa sạch, tùy thời lau chùi, tùy thời mài cọ, không để chỗ bụi bặm. Như vậy, này chư hiền, hoặc có người bên trong có cầu dục, kẻ ấy bên trong có cầu dục nhưng biết rất rõ. Nên biết kẻ ấy sẽ siêng năng, tinh tấn và ước muốn đoạn trừ dục cầu, không có ý cầu dục, mạng chung trong khi không có tham trước. Kẻ ấy không có ý cầu dục, đã mạng chung mà không có tham trước, thì sự mạng chung ấy đã tốt, cũng được sanh đến chỗ lành. Vì sao vậy? –Vì kẻ ấy mạng chung mà không có cầu dục, không có ý tham trước vậy.

–Này chư hiền, hoặc có người bên trong không có cầu dục, kẻ ấy bên trong không có cầu dục mà không biết rõ, nên biết kẻ ấy không thể bảo vệ được mắt, tai, ý, pháp. Khi đã không bảo vệ được mắt, tai, ý, pháp rồi thì ý sẽ có dâm dục. Kẻ ấy sẽ mạng chung mà ý còn tham trước tạp dục, tạp cầu. Kẻ ấy đã mạng chung mà ý còn tham trước tạp dục, tạp cầu, thì cái chết ấy bất thiện, cũng sanh đến chỗ bất thiện. Vì sao vậy? –Vì khi chết mà ý còn tham trước tạp dục, tạp cầu vậy. Này chư hiền, giống như, có người hoặc ở chợ búa, hay ở nhà thợ rèn mang một cái bát bằng đồng sạch sẽ về. Khi mang về rồi cũng không tùy thời rửa sạch, cũng không tùy thời lau chùi, cũng không tùy thời mài cọ, để chỗ bụi bặm. Cái bát đồng như vậy về sau sẽ bị cấu uế không sạch. Này chư hiền, như vậy, hoặc có người bên trong không có cầu dục, kẻ ấy bên trong không có cầu dục mà không biết rõ, nên biết kẻ ấy không thể bảo vệ được mắt, tai, ý, pháp. Kẻ ấy đã không bảo vệ được mắt, tai, ý, pháp rồi, sẽ có ý dâm dục, ý tạp dục, mạng chung mà ý đắm trước, tạp dục, tạp cầu. Kẻ ấy đã mạng chung mà có ý tham trước tạp dục, tạp cầu, thì sự chết sẽ không tốt, cũng không sanh đến chỗ lành. Vì sao vậy? –Vì kẻ ấy mạng chung mà có ý tham trước tạp dục, tạp cầu vậy.

–Này chư hiền, hoặc có người bên trong không có cầu dục, kẻ ấy bên trong không có cầu dục, nhưng biết rất rõ, nên biết kẻ ấy có thể bảo vệ được mắt, tai, ý, pháp. Kẻ ấy đã bảo vệ được mắt, tai, ý, pháp rồi sẽ không có dục ý, mạng chung mà ý không tham trước không cầu, không dục. Kẻ ấy đã mạng chung mà không có ý tham trước không dục, không cầu, thì sự chết đã tốt mà chỗ sanh cũng tốt. Vì sao vậy? –Vì mạng chung mà ý không tham trước không dục, không cầu vậy. Này chư hiền, giống như, có người hoặc ở chợ búa, hay ở nhà thợ rèn mang về cái bát bằng đồng sạch sẽ, mang về rồi tùy lúc rửa sạch, tùy lúc lau chùi, tùy lúc mài cọ, không để chỗ bụi bặm. Như vậy, cái bát ấy càng thêm sạch sẽ trắng tinh. Như vậy, này chư hiền, kẻ ấy cũng như vậy, bên trong không có cầu dục, kẻ ấy bên trong không có cầu dục, biết rõ như vậy, nên biết kẻ ấy có thể bảo vệ được mắt, tai, ý, pháp. Kẻ ấy đã bảo vệ được mắt, tai, ý, pháp rồi sẽ không có dâm dục. Kẻ ấy ý sẽ không tham đắm, không tạp dục, tạp cầu lúc mạng chung. Kẻ ấy đã mạng chung mà ý không tham đắm, không tạp dục, tạp cầu nên chết cũng tốt mà chỗ thác sanh cũng tốt. Vì sao vậy? –Vì kẻ ấy lúc mạng chung mà ý không tham đắm, không tạp dục, tạp cầu vậy.

Do vậy, này chư hiền, nhân như vậy, duyên như vậy nên khiến cho hai người đầu có cầu dục trước ý mà nói một người thì tệ ác, còn một người thì tối thắng. Do nhân như vậy, duyên như vậy nên hai loại người sau bên trong không có ý tham trước, cầu dục mà nói một người thì tệ ác còn một người thì tối thắng vậy.

Bấy giờ có Tỳ kheo khác từ tòa đứng dậy, sửa y chắp tay hướng về tôn giả Xá Lợi Phất, thưa tôn giả Xá Lợi Phất rằng:

–Thế nào, thưa tôn giả Xá Lợi Phất, gọi là cầu dục? Cầu dục ấy vì sao gọi là cầu dục?

Này chư hiền, vì cầu dục vô lượng các pháp ác, cho nên gọi là cầu dục. Này chư hiền, hoặc có người khởi lên ước muốn như sau: “Nếu ta có phạm tội chút ít đừng để cho người khác biết ta có phạm giới”. Này chư hiền, các Tỳ kheo có thể biết được vị ấy đã phạm giới, vì có người biết nên vị ấy trở thành sân hận. Này chư hiền, nếu kẻ ấy đã sân hận, do dục hành động, toàn là bất thiện.

Này chư hiền, hoặc có người khởi lên ước muốn: “Nếu ta có phạm tội chút ít, mong rằng người ta quở trách ở chỗ kín đáo, đừng quở trách ta phạm giới trước công chúng”. Nhưng này chư hiền, có thể biết rằng người phạm giới ấy bị quở trách trước công chúng. Do người ta không quở trách ở chỗ kín đáo mà lại quở trách trước công chúng, nên người ấy sanh tâm sân hận. Này chư hiền, người ấy đã sanh tâm sân hận rồi, hành động theo dục vọng, chỉ có bất thiện.

Này chư hiền, hoặc có người đã phạm giới mong rằng: “Người bằng ta trách mắng ta, đừng để người kém ta trách mắng sự phạm giới của ta”. Nhưng này chư hiền, nên biết rằng: người phạm giới ấy bị người kém hơn trách mắng. Vì bị người kém hơn trách mắng cho nên kẻ phạm giới ấy sanh tâm sân hận. Này chư hiền, kẻ ấy sanh tâm sân hận rồi, nên hành động theo dục vọng, đó chỉ là bất thiện.

Này chư hiền, hoặc có người khởi lên ước muốn rằng: “Mong ta được ngồi trước mặt đức Thế Tôn, ta sẽ hỏi đức Thế Tôn để Ngài sẽ thuyết pháp cho các Tỳ kheo nghe, chớ đừng để Tỳ kheo khác ở trước mặt đức Thế Tôn hỏi đức Thế Tôn rồi Ngài thuyết pháp cho các Tỳ kheo nghe”. Này chư hiền, có thể biết rằng, có Tỳ kheo khác ở trước mặt đức Thế Tôn hỏi đức Thế Tôn rồi Ngài thuyết pháp cho các Tỳ kheo nghe. Kẻ ấy sanh tâm sân hận. Này chư hiền, kẻ ấy đã khởi tâm sân hận rồi, nên hành động theo dục vọng, đó là bất thiện.

Này chư hiền, hoặc có người khởi lên ước muốn rằng: “Lúc các Tỳ kheo vào làng, mong rằng ta đi trước nhất, đừng để một Tỳ kheo nào khác vào làng trước nhất ”. Này chư hiền, nên biết rằng, khi các Tỳ kheo vào làng có Tỳ kheo khác đi trước nhất. Khi các Tỳ kheo vào làng có Tỳ kheo khác đi trước nhất, vì có Tỳ kheo khác đi trước nhất các Tỳ kheo , nên vị ấy sanh tâm sân hận. Này chư hiền, kẻ ấy đã khởi tâm sân hận rồi, nên hành động theo dục vọng, đó là bất thiện.

Này chư hiền, hoặc có người trong lòng khởi lên ước muốn như vầy: “Khi các Tỳ kheo đã vào nhà tín thí, mong rằng ta được chỗ ngồi trước nhất, được nước rửa trước nhất, được đồ ăn trước nhất, chớ đừng để vị Tỳ kheo nào khác. Khi các Tỳ kheo đã vào nhà tín thí, thì được chỗ ngồi trước nhất, được nước rửa trước nhất, được đồ ăn trước nhất”. Này chư hiền, có thể biết rằng: “Có Tỳ kheo khác, khi các Tỳ kheo đã vào nhà tín thí rồi, ngồi chỗ ngồi trước nhất, được nước rửa trước nhất, được đồ ăn trước nhất”. Do đó vị ấy sanh tâm sân hận, vị ấy đã sanh tâm sân hận nên hành động theo dục vọng, đó là bất thiện.

Này chư hiền, hoặc có người khởi lên ước muốn như vầy: “Khi các Tỳ kheo đã ăn xong, thu cất bát, mong cho ta nói pháp cho các cư sĩ nghe để khuyến phát siêng năng, dạy dỗ tất cả để cho các cư sĩ được hoan hỷ, chớ đừng để Tỳ kheo khác khi các Tỳ kheo đã ăn xong, thu cất bát, thuyết pháp cho các cư sĩ nghe để khuyên họ siêng năng, dạy dỗ họ để cho họ được hoan hỷ”. Này chư hiền, nên biết như vầy, có vị Tỳ kheo khác, khi các Tỳ kheo đã ăn xong, thu cất bình bát cho đến khiến cho các cư sĩ được hoan hỷ. Vì có Tỳ kheo khác khi các Tỳ kheo đã ăn xong, thu cất bình bát cho đến khiến cho các cư sĩ được hoan hỷ, nên vị ấy đã sanh lòng sân hận. Này chư hiền, kẻ ấy hành động theo dục vọng, đó là bất thiện.

Này chư hiền, hoặc có người khởi lên ước muốn như vầy: “Nếu có cư sĩ vào vườn chúng tăng, mong rằng ta cùng cư sĩ đàm luận, nói bàn, đừng để Tỳ kheo khác, khi có cư sĩ vào vườn chúng tăng, cùng họ đàm luận, nói bàn”. Này chư hiền, có thể rằng: có Tỳ kheo khác khi có cư sĩ vào vườn chúng tăng rồi, cùng họ đàm luận, nói bàn. Vì có Tỳ kheo khác khi cư sĩ vào vườn chúng tăng rồi, cùng họ đàm luận, nói bàn, cho nên vị ấy sanh lòng sân hận. Này chư hiền, kẻ ấy đã sanh lòng sân hận rồi, nên hành động theo dục vọng, đó là bất thiện.

Này chư hiền, hoặc có người khởi lên ước nguyện rằng: “hãy khiến cho nhà vua, đại thần, Bà la môn, cư sĩ không một ai mà không biết đến ta, đừng để cho Tỳ kheo khác được nhà vua, đại thần, Bà la môn, cư sĩ ai cũng biết đến”. Này chư hiền, có thể rằng: có Tỳ kheo khác được nhà vua, đại thần biết đến, và các Bà la môn, cư sĩ, không ai mà không biết đến. Vì có các Tỳ kheo khác được nhà vua, đại thần biết đến, và được Bà la môn, cư sĩ ai cũng biết đến, vị ấy sanh tâm sân hận. Này chư hiền, vị ấy đã sanh tâm sân hận, nên hành động theo dục vọng, đó là bất thiện.

Này chư hiền, hoặc có người khởi lên mong ước rằng: “Hãy khiến cho ta được bốn bộ chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di cúng dường, chớ đừng để Tỳ kheo khác được bốn bộ chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di cúng dường”. Này chư hiền, có thể rằng: có Tỳ kheo khác được bốn bộ chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di cúng dường. Vì có Tỳ kheo khác được bốn bộ chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di cúng dường, nên vị ấy nỗi tâm sân hận. Này chư hiền, vị ấy đã nỗi tâm sân hận nên hành động theo dục vọng, đó là bất thiện.

Này chư hiền, hoặc có người khởi lên mong ước rằng: “Hãy khiến cho ta được áo quần, giường chõng, thuốc men trị bệnh, chớ đừng để Tỳ kheo khác được áo quần, giường chõng, thuốc men trị bệnh. Này chư hiền, có thể rằng: “Có Tỳ kheo khác được áo quần, giường chõng, thuốc men trị bệnh. Vì có Tỳ kheo khác được áo quần, giường chõng, thuốc men trị bệnh nên vị ấy sanh tâm sân hận. Này chư hiền, vị ấy đã sanh tâm sân hận rồi nên hành động theo dục vọng, đó là bất thiện.

Này chư hiền, hoặc có người nếu có vi phạm hạnh có trí, xả bỏ vô lượng các ác bất thiện, cầu dục hạnh, đừng có làm việc này: hoặc cùng với người không phải Sa môn mà cho người ấy hành Sa môn, hoặc cùng với người chẳng phải là Sa môntrí huệ mà cho là Sa môntrí huệ; không nên cầu ngồi tòa trên mà cầu ngồi tòa trên; không có định mà cho là có định, ở chỗ bất tịnh mà cho là thanh tịnh. Này chư hiền, như vậy kẻ ấy đối với các vị phạm hạnhtrí tuệ lại có vô lượng các ác bất thiện hạnh như vậy, biết có việc làm này: biết cùng với người không phải là Sa môn cho là không phải Sa môn; cùng với người không phải là Sa môntrí tuệ, biết đó là Sa môn không có trí tuệ, cùng với người không nên cầu tòa trên mà cầu tòa trên, người không có định biết là không có định, cùng với người bất tịnh, biết là bất tịnh.

Này chư hiền, cũng giống như có người ở chợ búa hay nhà thợ rèn mang về cái bát bằng đồng đầy đồ bất tịnh bên trong, lại có một cái nắp đậy lên trên. Nếu mang nó đến chỗ đông người, những người kia thấy bát đồng ấy đều muốn được ăn, tỏ ý ưa thích, không biết nó là đồ bất tịnh. Hoặc số đông người kia mang cái bát đồng ấy đến một chỗ và dở nó ra, nếu có người muốn ăn liền không muốn ăn, há lại người mang bát ấy lại muốn ăn sao?

Này chư hiền, như vậy nếu người phạm hạnhtrí tuệ, làm vô lượng các ác bất thiện hạnh như vậy, cùng với người không phải Sa môn mà cho là Sa môn hạnh , cùng với người Sa môn không có trí huệ mà cho là Sa môntrí huệ; không nên cầu tòa trên mà cầu tòa trên; không có định mà cho là có định; cùng với người bất tịnh mà cho là thanh tịnh. Này chư hiền, như vậy người ấy đối với các vị phạm hạnhtrí tuệ, có vô lượng các ác bất thiện pháp như vậy, biết rằng cùng ở với chẳng phải là Sa môn là chẳng phải Sa môn; cùng ở với Sa môn không có trí tuệ là chẳng phải Sa môntrí tuệ, cùng với người không nên cầu tòa trên mà cầu tòa trên; cùng với người không có định là không có định; cùng với người bất tịnhbất tịnh.

Này chư hiền, người như vậy không nên gần gũi, không nên cung kính, không nên thừa sự. Nếu Tỳ kheo không nên gần gũi, cung kính, lễ báicung kính lễ bái thì kẻ ấy mãi mãi mất điều lợi ích, đau khổ, tương ưng với đường ác. Cho nên, này chư hiền, người như vậy chớ nên gần gũi, chớ nên cung kính lễ bái.

Này chư hiền, hoặc có người không khởi lên mong ước rằng: “Ta có phạm giới không muốn cho người khác biết ta có phạm giới”. Này chư hiền, có thể biết rằng: Người ấy có phạm giới, nếu có người khác biết người ấy phạm giới. Người khác dù có biết, nhưng tâm vị ấy không sân hận. Này chư hiền, do tâm không sân hận, nên dục hữu sở hành là thiện.

Này chư hiền, hoặc có người không khởi lên mong ước: “Nếu ta có phạm giới, hãy nói tội ta chỗ vắng vẻ, chớ đừng nói tội ta ở giữa chúng”. Này chư hiền, có thể biết rằng: người phạm giới ấy bị nói ra giữa chúng, chớ không nói ở chỗ vắng vẻ. Tuy phạm giới bị nói ra giữa chúng nhưng tâm vị ấy không sân hận. Này chư hiền, do tâm không sân hận, nên dục hữu và sở hành là thiện.

Này chư hiền, hoặc có người không khởi lên mong ước rằng: “Hãy để người bằng ta nói sự phạm giới của ta, chứ đừng để kẻ không bằng ta nói sự phạm giới của ta”. Này chư hiền, có thể rằng: người phạm giới ấy bị người không bằng mình nói chớ không phải người không bằng mình nói. Bị người không bằng mình nói về sự phạm giới của mình nhưng tâm vị ấy vẫn không giận. Này chư hiền, do tâm vị ấy vẫn không giận, nên dục hữu và sở hành là thiện.

Này chư hiền, hoặc có người không có mong ước rằng: “Mong ta ngồi trước đức Thế Tôn và hỏi đức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn sẽ thuyết pháp cho các Tỳ kheo nghe, chớ đừng để Tỳ kheo khác ngồi trước đức Thế Tôn và hỏi đức Thế Tôn để đức Thế Tôn thuyết pháp cho các Tỳ kheo nghe”. Này chư hiền, có thể biết rằng: có Tỳ kheo khác ngồi trước đức Thế Tônđức Thế Tôn thuyết pháp cho các Tỳ kheo nghe. Dù có vị Tỳ kheo khác ngồi trước đức Thế Tôn hỏi đức Thế Tôn để Ngài thuyết pháp cho các Tỳ kheo, nhưng tâm vị ấy không sân hận. Này chư hiền, nếu tâm không sân hận, thì dục hữu và sở hành, đó là thiện.

Này chư hiền, hoặc có người không có ước muốn rằng: “Lúc các Tỳ kheo vào làng, mong rằng ta đi trước nhất, chớ đừng có vị Tỳ kheo nào khác đi trước nhất ”. Này chư hiền, có thể rằng: có Tỳ kheo khác, khi các Tỳ kheo vào làng thì đi trước. Dù có Tỳ kheo khác, khi các Tỳ kheo vào làng thì đi trước, nhưng tâm vị ấy không sân hận. Này chư hiền, do tâm ý không sân hận, nên dục hữu và sở hành là thiện.

Này chư hiền, hoặc có người không có mong ước rằng: “Khi các Tỳ kheo đã vào nhà tín thí, ta được nhận nước rửa và đồ ăn trước nhất, chớ đừng để Tỳ kheo khác, khi các Tỳ kheo đã vào nhà tín thí, thì ngồi ở trước nhất, thọ nhận nước rửa và đồ ăn trước nhất”. Này chư hiền, có thể rằng: “Có Tỳ kheo khác, khi các Tỳ kheo đã vào trong thì được ngồi trước nhất, thọ nhận nước rửa và đồ ăn trước nhất, dù như vậy nhưng tâm vị ấy không sân hận. Này chư hiền, do tâm không sân hận, nên dục hữu và sở hành là thiện.

Này chư hiền, hoặc có người không khởi lên ước muốn rằng: “Các Tỳ kheo đã ăn xong, cất bình bát, hãy khiến cho ta vì cư sĩ thuyết pháp, giáo thọ, khuyến phát tinh tấn..., giáo thọ khiến cho họ được hoan hỷ, chớ đừng để Tỳ kheo khác khi các Tỳ kheo đã ăn xong, cất bình bát, vì cư sĩ thuyết pháp, giáo thọ, khuyến phát tinh tấn..., giáo thọ tất cả khiến cho họ được hoan hỷ. Này chư hiền, có thể rằng: có Tỳ kheo khác khi các Tỳ kheo đã ăn xong, cất bình bát, vì cư sĩ thuyết pháp, giáo thọ, khuyến phát tinh tấn..., giáo thọ tất cả. Giáo thọ tất cả khiến cho họ được hoan hỷ, nhưng vị ấy vẫn không có tâm sân hận. Này chư hiền, vì vị ấy không có tâm sân hận, nên dục hữu và sở hành là thiện.

Này chư hiền, hoặc có người không khởi lên mong ước rằng: “khi cư sĩ vào vườn của tăng chúng, ta sẽ đàm luận với họ, đừng để Tỳ kheo khác đàm luận với cư sĩ khi họ vào vườn của tăng chúng”. Này chư hiền, có thể rằng: có Tỳ kheo khác đàm luận với cư sĩ khi họ vào vườn của tăng chúng. Dù có Tỳ kheo khác đàm luận với cư sĩ khi họ vào vườn của tăng chúng mà tâm vị ấy vẫn không sân hận. Này chư hiền, do tâm vị ấy vẫn không sân hận, nên dục hữu và sở hành là thiện.

Này chư hiền, hoặc có người không khởi lên ước nguyện rằng: “Hãy khiến cho nhà vua, đại thần, Bà la môn, cư sĩ không một ai không biết đến ta, chớ đừng để Tỳ kheo khác được vua, đại thần, Bà la môn, cư sĩ ai cũng biết đến”. Này chư hiền, có thể rằng: có vị Tỳ kheo khác được vua, đại thần, Bà la môn, cư sĩ ai cũng biết đến. Dù như vậy nhưng tâm vị ấy vẫn không sân hận. Này chư hiền, do tâm vị ấy không sân hận, nên dục hữu và sở hành là thiện.

Này chư hiền, hoặc có người không khởi lên ước nguyện rằng: “Hãy khiến cho ta được bốn bộ chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di cúng dường, chớ đừng để Tỳ kheo khác được bốn bộ chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di cúng dường”. Này chư hiền, có thể rằng: có Tỳ kheo khác được bốn bộ chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di cúng dường. Dù như vậy nhưng tâm vị ấy vẫn không sân hận. Này chư hiền, do tâm không sân hận, nên dục hữu và sở hành là thiện.

Này chư hiền, hoặc có người không khởi lên ước nguyện rằng: “Hãy khiến cho ta được y phục, giường chõng, thuốc men chữa bệnh, chớ đừng để Tỳ kheo khác được áo quần, giường chõng, thuốc men trị bệnh. Này chư hiền, có thể rằng: “Có Tỳ kheo khác được y phục, giường chõng, thuốc men chữa bệnh. Dù vị Tỳ kheo khác được y phục, giường chõng, thuốc men chữa bệnh nhưng tâm vị này vẫn không sân hận. Này chư hiền, do tâm không sân hận, nên dục hữu và sở hành là thiện.

Này chư hiền, như vậy người đó đối với vị phạm hạnhtrí tuệ, thích được vô lượng chư thiện pháp hạnh nên không biết là cùng câu hội với Sa môn mà nói là không phải Sa môn, cùng câu hội với Sa môntrí huệ mà nói không phải Sa môntrí huệ; cùng câu hội với vị thượng tòa mà nói không phải vị thượng tòa, cùng câu hội với người có định mà nói là không có định, cùng câu hội với vị thanh tịnh mà nói là không thanh tịnh. Như vậy, này chư hiền, hoặc có người đối với vị phạm hạnhtrí tuệ, như vậy có vô lượng các thiện hạnh đều biết rõ, cùng câu hội với Sa môn thì biết là cùng câu hội với Sa môn, cùng câu hội với Sa môntrí huệ thì biết là cùng câu hội với Sa môntrí huệ; cùng câu hội với người có định nên biết cùng câu hội với người có định, cùng câu hội với người thanh tịnh nên biết là cùng câu hội với người thanh tịnh.

Này chư hiền, giống như có người ở chợ búa hay nhà thợ rèn mang về cái bát bằng đồng, trong bát chứa đầy đồ ăn cao lương mỹ vị, trên cái bát có cái nắp đậy lại rồi người ấy mang đến chỗ đông người, nhiều người thấy cái bát ấy đều không muốn ăn, không ưa thích, cho đó là đồ bất tịnh. Họ nói rằng: đó là đồ đựng bất tịnh, đó là đồ đựng bất tịnh! Người ấy mang bát đồng đến chỗ đông người rồi dở nắp ra, thì dù cho người không muốn ăn cũng muốn ăn, há lại người thấy ở trước mà nay không muốn ăn sao?

Này chư hiền, như vậy hoặc có người đối với vị phạm hạnhtrí tuệ, có vô lượng các thiện hành mà không thể biết được: cùng câu hội với Sa môn mà nói là không phải Sa môn, cùng câu hội với Sa môntrí huệ mà nói không phải Sa môntrí huệ; cùng câu hội với vị thượng tòa mà nói không phải thượng tòa, cùng câu hội với người có định mà nói là không có định, cùng câu hội với vị thanh tịnh mà nói là không thanh tịnh.

Như vậy, này chư hiền, hoặc có người đối với vị phạm hạnhtrí tuệ, có vô lượng các thiện hạnh. Sau đó mới biết là cùng câu hội với Sa môn đúng là cùng câu hội với Sa môn, cùng câu hội với Sa môntrí huệ đúng là cùng câu hội với Sa môntrí huệ; cùng câu hội với vị thượng tòa biết chính đó là thượng tòa; cùng câu hội với người có định biết là có định, cùng câu hội với người thanh tịnh biết đó là thanh tịnh. Như vậy, này chư hiền, người ấy nên cung kính, thừa kếlễ bái. Tỳ kheo nên gần gũi, nên cung kính, nếu cung kính thì nên thừa kế, nếu thừa kế thì nên thực hành. Người thực hành như vậy mãi mãi được lợi ích an lạc. Cho nên, này chư hiền, người như vậy cần phải thân cận, cung kínhthừa kế.

Bấy giờ tôn giả Ðại Mục Kiền Liên cũng có mặt ở trong hội tòa, tôn giả nói với tôn giả Xá Lợi Phất rằng:

–Này tôn giả Xá Lợi Phất, nay tôi muốn nói một thí dụ, Ngài có cho phép không?

–Hãy nói đi, này hiền giả Mục Kiền Liên.

–Thưa tôn giả Xá Lợi Phất, thuở xưa ở trong nước Kỳ Xà Quật, nước La Duyệt Kỳ, này tôn giả Xá Lợi Phất, vào lúc sáng sớm tôi thức dậy, mặc y phục mang bát đến La Duyệt Kỳ để khất thực. Trong khi tôi đi khất thựcLa Duyệt Kỳ, tôi đến nhà một thợ xe, thấy vô niệm Mãn Tử ở nhà một thợ xa khác, thấy người thợ đang đẽo trục xe. Gã vô niệm Mãn Tử ở nhà thợ làm xe nghĩ rằng: “Người thợ xe này đẽo trục xe. Hãy đẽo gọt chỗ này như thế này. Cái trục xe nay có chỗ xấu kia đã được đẽo gọt”. Gã vô niệm Mãn Tử kia, lúc ở nhà thợ làm xe nghĩ rằng: “Người thợ này như ý nghĩ của nó, cầm búa đẽo gọt trục xe”. Khi đó vô niệm Mãn Tử liền nói: “Người thợ làm xe này đã biết ý ta khi sữa trục xe. Như chỗ đã được đẽo gọt thì trục xe như vậy sẽ thuận lợi không còn trở ngại”.

Như vậy, thưa tôn giả Xá Lợi Phất, nếu có người dua nịnh dối trá, huyễn thuật, không tín, không có tín, giải đãi, không tinh tấn, ý nghĩ tán loạn không có định tĩnh, ác trí, ý tán loạn, các căn không định, đối với giới hạnh noãn, không phân biệt được Sa môn hạnh. Nhưng tôn giả Xá Lợi Phất đã biết tâm niệm của họ làm cho họ được giải thoát.

–Thưa tôn giả Xá Lợi Phất, nếu có người không có dua nịnh, dối trá, không phải huyễn thuật, có tín, tín nhạo hành tinh tấn, ý thường định, trí tuệ học giới cung kính, phân biệt rộng rãi hạnh Sa môn. Kẻ ấy theo tôn giả Xá Lợi Phất nghe thuyết pháp xong, sung sướng như được uống, sung sướng như được ăn, miệng và ý đều thọ trì.

–Thưa tôn giả Xá Lợi Phất, giống như con gái Sát Lợi, con gái của Bà la môn, con gái của cư sĩ hay con gái của công sư, tắm rửa sạch sẽ, lấy hương thoa khắp thân thể mặc áo mới tinh. Giả sử có người đến với nàng, sanh lòng từ mẫn, muốn nàng được lợi ích, muốn khiến cho nàng được an ổn, nên đem tràng hoa sen xanh, hoặc tràng hoa Chiêm bặc, hoặc tràng hoa Bà sư, hoặc tràng hoa A Ðề Ma Ða đến tặng nàng. Người con gái ấy nhận cả hai tay, dùng trang sức trên đầu.

Thưa tôn giả Xá Lợi Phất, cũng vậy, hoặc có người không có dua nịnh, dối trá, cũng không phải huyễn thuật, cũng không bất tín, có thể thực hành tinh tấn, tâm ý thường định, có trí tuệ, cung kính sự học, học giới, rộng phân biệt hạnh Sa môn. Người ấy theo tôn giả Xá Lợi Phất nghe pháp rồi, sung sướng như được uống, sung sướng như được ăn, miệng và ý cũng như vậy.

Tôn giả Xá Lợi Phất, thật kỳ diệu! Tôn giả Xá Lợi Phất đã vì các vị tu phạm hạnh mà tẩy trừ các điều bất thiện, an trú chỗ thiện. Lành thay thưa hiền giả! Ngài là bậc Chân nhơn.

Như thế cả hai bên tán thán lẫn nhau, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy, về lại chỗ của mình.

 

PHẬT NÓI KINH CHƯ PHÁP BỔN

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34607)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33427)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43898)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57020)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47531)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39409)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38451)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52907)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36583)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32224)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40427)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43456)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31432)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46690)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36155)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28677)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29207)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31858)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28788)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33339)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29102)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60965)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39715)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26635)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29637)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37332)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40061)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26821)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42625)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37260)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28272)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28880)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26380)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27144)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26173)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34590)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27790)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30446)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33249)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28539)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30047)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25469)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21826)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51264)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26700)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28597)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27683)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24336)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27448)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31900)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30165)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27667)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35401)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27417)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29982)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31734)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22986)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24163)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23005)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
(Xem: 26628)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant