Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Số

16 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14976)
Kinh Số


PHẬT NÓI KINH SỐ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0070 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tây Tấn, Thích Pháp Cự.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 

Nghe như vầy:

Một thời Bà Già Bà ở Ðông viên, Lộc Tử Mẫu giảng đường, nước Xá vệ.

Bấy giờ Bà la môn toán số, sau bữa trưa thong dong tản bộ đi đến chỗ đức Thế Tôn, khi đến chào hỏi, rồi ngồi qua một bên. Bà la môn bạch đức Thế Tôn:

–Thưa Cù Ðàm, tôi có điều muốn hỏi, nếu ngài cho phép tôi mới dám hỏi.

Ðức Thế Tôn nói:

–Ngươi cứ hỏi, này Bà la môn, theo ý ngươi thích.

Toán số Bà la môn thưa:

–Thưa Cù Ðàm, Lộc (Tử Mẫu) giảng đường này được xây cất theo thứ lớp và thành tựu theo thứ lớp. Này Cù Ðàm, cầu thang trong Lộc giảng đường này bắt đầu lên một nấc, như vậy rồi đến hai, ba, bốn. Này Cù Ðàm, như vậy giảng đường Lộc lần lượt theo thứ tự đi lên. Này Cù Ðàm, sự điều phục voi này cũng lần lượt dạy dỗ và con voi cũng theo thứ tự học. Nghĩa là tay cầm móc câu (mà dạy) vậy. Này Cù Ðàm, sự cỡi ngựa này cũng thứ lớp dạy dỗ và thứ lớp học tập, nghĩa là do dây cương vậy. Này Cù Ðàm, dòng Sát lợi cũng lần lượt dạy dỗ và lần lượt học tập, nghĩa là cầm cung tên. Này Cù Ðàm, Bà la môn này cũng thứ lớp dạy dỗ, thứ lớp học tập, nghĩa là học thơ, văn chương. Này Cù Ðàm, chúng tôi học toán số, nhờ toán số mà mưu sinh. Nếu có đệ tử học toán số, đó là các trẻ em, bắt đầu được dạy từng con số một, rồi hai, hai rồi ba, hai, ba rồi mười, một trăm, hoặc tăng lên thật nhiều. Như vậy, này Cù Ðàm, chúng tôi học toán số, nhờ toán số mưu sinh, thứ lớp dạy, thứ lớp học. Ðó là học toán số. Sa môn Cù Ðàm, với pháp luật này được dạy như thế nào và được học như thế nào để có thể biết được (sự thành tựu)?

Ðức Thế Tôn nói:

–Này (Toán) số Mục Kiền Liên, nếu nói như vậy là những gì ngươi tuyên thuyết chăng? Ðó là thứ lớp dạy dỗ, thứ lớp học tập, giữ giới, dạy học? Này Mục Kiền Liên, nếu nói như vậy là thứ lớp nói thì đó chính là pháp luật của ta vậy. Vì sao? Này Mục Kiền Liên, vì đối với pháp luật của ta thứ lớp dạy dỗ, thứ lớp hành giới, thứ lớp học tập. Này Mục Kiền Liên, đó là đối với Tỳ kheo mới học đạo không lâu, đến với pháp luật này cũng chưa được nghe đức Như Lai dạy. Ta dạy: “Này Tỳ kheo, với thân phải làm những việc trong sạch, miệng và ý phải làm những việc trong sạch”. Này Mục Kiền Liên, nếu thân, miệng và ý làm những việc trong sạch. Ðức Như Lai vô thượng dạy thêm: “Này Tỳ kheo, hãy quán nội thân như thân hành chỉ; cho đến hãy quán thống, ý, pháp như pháp hành chỉ”. Này Mục Kiền Liên, đó là Tỳ kheo quán nội thân như thân hành chỉ; cho đến hãy quán thống, ý, pháp như pháp hành chỉ rồi, đức Như Lai vô thượng dạy thêm: “Này Tỳ kheo, hãy hộ trì căn môn, tự giữ gìn ý niệm, tất đều tự hành tinh tấn. Nếu mắt thấy sắc, đừng chấp thủ sắc tưởng, đừng đắm nhiễm tưởng người khác. Ðó là nhờ nhân duyên hỗ trợ nên thủ hộ nhãn căn, tâm sẽ không bị sỉ nhục, tham ưu, lo lắng, không tạo pháp ác bất thiện; ở trong đó học thủ hộ nhãn căn. Cũng vậy, đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý căn, thân ý biết pháp, đừng chấp thọ tưởng, đừng chấp thọ tưởng người khác. Ðó là nhờ nhân duyên hổ trợ nên thân, ý căn này không bị sỉ nhục, tham ưu và lo lắng, không có pháp bất thiện, không trụ nơi ý, kẻ ấy ở trong đó học cách thủ hộ ý căn”.

Này Mục Kiền Liên, nếu Tỳ kheo đầy đủ các căn môn, tự thủ hộ tâm ý, ý không nhiễm, thủ hộ ý, ý cùng niệm đồng hành tinh tấn. Khi mắt thấy sắc cũng không thọ tưởng, không thọ tưởng người khác. Ðó là nhờ tăng thượng duyên vậy, nên nhãn căn được đầy đủ, không bị sỉ nhục, tham ưu lo lắng, không ở trong pháp ác bất thiện. Kẻ ấy học cách tự thủ hộ nhãn căn; cũng vậy đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý biết pháp, cũng không thọ tưởng, cho đến kẻ ấy ở trong đó học cách tự thủ hộ ý căn. Ðức Như Lai, bậc vô thượng dạy tiếp: “Này Tỳ kheo, hãy hành quán các lỗi lầm đã qua, hãy quán biết lúc co lúc duỗi, đắp y Tăng già lê, ôm bát, lúc đi, lúc đứng, lúc ngồi, hoặc ngủ hoặc thức, hoặc nói hoặc im, thảy đều biết rõ”.

Này Mục Kiền Liên, nếu Tỳ kheo đối với các lỗi lầm đã qua, cho đến hành đối với đẳng hành rồi, đức Như Lai bậc vô thượng lại dạy thêm: “Này Tỳ kheo, khi biết giường nằm rồi mới thọ dụng, hoặc ở nơi vắng vẻ, hoặc ở dưới gốc cây, chỗ trống không vắng vẻ, ở trong sườn núi, động đá, ngồi trên tòa cỏ giữa trời, giữa rừng, giữa gò mả. Kẻ ấy hoặc ở nơi vắng vẻ, hãy trải ni sư đàn, ngồi kiết già, chánh thân chánh nguyện, nhiếp niệm ở trước mặt, đoạn trừ tham lam tật đố, ý không sân hận, đừng thấy tài vật của người khác phát sanh lòng tham, nghĩa là mong vật của người khác trở thành của mình, hãy tịnh trừ ý tham ấy. Cũng vậy, đối với sân hận, giải đãi, ngủ nghĩ, trạo hối, hổ thẹn, trừ nghi, tham, lìa tà, lìa nghi, lìa các pháp do dự, hãy thanh tịnh ý nghi. Người ấy đoạn trừ ngũ cái, và ý đắm trước, trí tuệ yếu kém, đã giải thoát dâm, cho đến an trụ tứ thiền.

Như vậy, này Mục Kiền Liên, Tỳ kheo đã giải thoát dâm cho đến an trụ tứ thiền, thì này Mục Kiền Liên, đức Như Lai vì để cho Tỳ kheo sơ học được nhiều lợi ích, nghĩa là Ngài dạy học, giáo hạnh. Này Mục Kiền Liên, nếu đối với các Tỳ kheo thượng tôn mà các vua đều biết, không giải đãi, thực hành phạm hạnh, đức Như Lai bậc vô thượng dạy rằng: “Hãy thành tựu rốt ráo, diệt sạch hữu lậu”.

Toán số Mục Kiền Liên thưa:

–Này Sa môn Cù Ðàm, đối với tất cả đệ tử, Ngài dạy như vậy, phải học như vậy, tất cả đều đạt được cứu cánh, đạt Niết bàn chăng?

Thế Tôn đáp:

–Này Mục Kiền Liên, không phải nhất định đều đạt được. Hoặc có người không đạt được, hoặc có người đạt được.

Toán số Mục Kiền Liên lại hỏi:

–Này Cù Ðàm, do nhân gì duyên gì nói rằng có Niết bàn, và cầu Niết bàn đạo, và Sa môn Cù Ðàm hiện tại là bậc Ðạo sư mà có Tỳ kheo được dạy dỗ như vậy, được học tập như vậy, mà có người đạt cứu cánh Niết bàn, nhưng người khác thì không đạt?

Ðức Thế Tôn nói:

–Do đó, này Mục Kiền Liên, nay ta lại hỏi ngươi, tùy theo sự hiểu biếttrả lời ta. Này Mục Kiền Liên, ý ngươi nghĩ sao? Ngươi có biết rõ con đường về La duyệt kỳ chăng?

Thưa rằng:

–Thưa vâng, Cù Ðàm, tôi biết rõ con đường về La duyệt kỳ.

Ðức Thế Tôn nói:

–Nếu có một người muốn đến La duyệt kỳ để yết kiến vua, kẻ ấy đến chỗ ngươi nói rằng: “Này Bà la môn Mục Kiền Liên, người biết rõ toán số, con đường đi đến La duyệt kỳ, tôi muốn hỏi đường đến La duyệt kỳ để yết kiến vua”. Ngươi sẽ nói với người ấy rằng: “Ngươi nên theo con đường chánh này mà đi, sẽ đến thôn kia, rồi từ thôn ấy đến chỗ kia. Lần lượt như thế sẽ đến thành La duyệt kỳ (Vương xá). Ở thành La duyệt kỳ có những khu vườn xinh đẹp, rừng cây tươi tốt, đất bằng phẳng, ao tắm đẹp, nước sông chảy dài mát lạnh, an ổn khoái lạc. Hãy biết như vậy, hãy thấy như vậy”. Người ấy sau khi nghe ngươi chỉ dẫn tường tận rồi, theo lời chỉ dẫn, theo con đường đó đi thẳng, kẻ ấy đi thẳng rồi lại theo một con đường trái ngược. Cho nên đối với những khu vườn xinh đẹp cho đến sự an ổn khoái lạc của La duyệt kỳ, kẻ ấy cũng chẳng biết, kẻ ấy cũng chẳng thấy.

Lại có người khác đến yết kiến vua, muốn tới La duyệt kỳ, kẻ ấy đến chỗ ngươi hỏi rằng: “Này Bà la môn Mục Kiền Liên, ngài biết rõ toán số, chỉ cho tôi con đường đến La duyệt kỳ, tôi muốn đến La duyệt kỳ, xin ngài chỉ đường cho tôi”. Ngươi sẽ nói rằng: “Ngươi theo con đường thẳng này mà đến, đi thẳng đến một thôn, đến thôn rồi tới chỗ kia, ngươi cứ đi theo thứ lớp như vậy sẽ đến La duyệt kỳ. Ở La duyệt kỳ có vườn cây xinh đẹp cho đến được an ổn khoái lạc. Người sẽ biết như vậy, thấy như vậy”.

Này Mục Kiền Liên, do nhân gì duyên gì trong khi có thành La duyệt kỳ, có con đường đi đến thành La duyệt kỳ, và có ông là người chỉ đường, nhưng người thứ nhất nghe lời ông chỉ dẫn, lại không làm đúng, theo con đường lầm lẫn rồi trở lui? Cho nên những khu vườn, đất bằng phẳng cho đến được an ổn khoái lạc ở La duyệt kỳ, tất cả cảnh người ấy đều không biết, không thấy gì cả. Còn người thứ hai nghe theo lời dạy, vâng theo sự hướng dẫn, đi đúng đường, lần lượt đi đến thành La duyệt kỳ. Cho nên các cảnh ở La duyệt kỳ, khu vườn xinh đẹp, đất bằng phẳng ... cho đến được an ổn khoái lạc, người ấy biết hết và thấy hết.

Toán số Mục Kiền Liên đáp:

–Này Cù Ðàm, tôi biết làm sao được, có thành La duyệt kỳ đó, có con đường dẫn đến thành La duyệt kỳ. Tôi chỉ làm người giáo thọ. Người thứ nhất không làm theo sự chỉ dẫn của tôi, theo con đường lầm lẫn để lui trở lại và những gì ở La duyệt kỳ như vườn đẹp, đất bằng, cho đến... được an ổn khoái lạc, người ấy đều không thấy, không biết. Còn người thứ hai kia nghe theo lời chỉ dẫn của tôi nên đi đúng con đường ấy, lần lượt đến được La duyệt kỳ. Những gì ở La duyệt kỳ như vườn đẹp, đất bằng, ... cho đến sự an ổn khoái lạc người ấy đều biết, người ấy đều thấy cả.

Ðức Thế Tôn nói rằng:

–Cũng vậy, này Mục Kiền Liên, ta cũng biết làm sao được, có Niết bàn đó, có con đường dẫn tới Niết bàn đó. Ta chỉ là Ðạo sư. Hoặc có Tỳ kheo làm theo sự chỉ dẫn như vậy, giáo lệnh như vậy, cho nên đạt được cứu cánh Niết bàn. Hoặc có Tỳ kheo không làm đúng như vậy nên không đạt được như vậy. Này Mục Kiền Liên, đó là Tỳ kheo kia đối với sự giáo thọ ấy, ở trong chúng của Thế Tôn được thọ ký, nghĩa là người ấy đạt được cứu cánh, dứt sạch hữu lậu.

Toán số Mục Kiền Liên thưa:

–Thưa Cù Ðàm, tôi đã hiểu. Bạch Cù Ðàm, tôi đã hiểu. Thưa Cù Ðàm, cũng như trên mảnh đất tốt có khu rừng Sa La, trong đó có người giữ rừng cây Sa La, siêng năng không lười biếng. Kẻ ấy tự dùng sức lực của mình, đối với gốc rễ cây Sa La tùy theo thời mà cuốc xới, chăm sóc, bón phân, tưới nước. Nếu có chỗ thấp thì lấy đất lấp cho đầy, nếu bên cạnh có cỏ thì nhổ đi. Nếu ở bên cây có cỏ bò dài, tệ ác, cong queo không ngay thẳng, đều phòng ngừa, nhổ sạch, tỉa đi. Nghĩa là người ấy vứt bỏ những cây cỏ mới mọc, chăm sóc hết sức những cây con, tùy thời tưới nước, bón phân cho cây, lấy nước tưới cây. Bạch Cù Ðàm, như vậy trên mảnh đất tốt rừng cây Sa La về sau càng sum sê to lớn. Bạch Cù Ðàm, cũng vậy, có người dua nịnh dối trá làm điều hư huyễn, bất tín, giải đãi, loạn chí, bất định, ác trí, ý loạn, các căn rối loạn, trì giới lơ là, không hết sức phân biệt hạnh Sa môn. Sa môn Cù Ðàm đối với những kẻ ấy không thể ở chung, không thể sống chung. Vì sao vậy? Bạch Cù Ðàm, những người như vậy là phá hoại phạm hạnh. Bạch Cù Ðàm, nếu có người không có dua nịnh, cũng không có ý tà, tín hành, tinh tấn, ý thường trụ nơi định, trí tuệ, thuận kính học giới, phân biệt nhiều về hạnh Sa môn. Bạch Sa môn Cù Ðàm, bậc vô sở trước có thể ở chung với những người ấy. Vì sao vậy? Bạch Cù Ðàm, những người như vậy, đối với bậc phạm hạnh, họ là ứng pháp thanh tịnh. Bạch Cù Ðàm, cũng như trong các loại hương bằng lõi cây, Ca La (trầm hương) là bậc nhất. Vì sao vậy? Thưa Cù Ðàm, vì trầm hương đối với các loại hương bằng lõi cây, nó là tối thượng. Bạch Cù Ðàm, cũng giống như trong các loại Sa La hương thì Xích Chiên đàntối thượng. Vì sao vậy? Bạch Cù Ðàm, vì trong các loại Sa la hương thì Xích Chiên đàn là bậc nhất. Bạch Cù Ðàm, cũng như các loại thủy hoa thì hoa sen xanh là bậc nhất. Vì sao vậy? Bạch Cù Ðàm, vì trong các thủy hoa thì hoa sen xanhđứng đầu. Bạch Cù Ðàm, cũng như trong các thứ hoa trên mặt đất thì hoa Câu mâu ni bà lợi sư là bậc nhất. Vì sao vậy? Bạch Cù Ðàm, vì trong các loại hoa trên mặt đất thì hoa Bà lợi sư là đứng đầu. Bạch Cù Ðàm, cũng như giữa các luận thuyết thế gian, luận thuyết Sa môn Cù Ðàm là bậc nhất. Vì sao vậy? Vì luận thuyết của Sa môn Cù Ðàm có thể nhiếp phục tất cả học thuyết khác của ngoại đạo vậy. Bạch Thế Tôn, vì vậy cho nên nay con tự quy y phápTỳ kheo tăng. Bạch Thế Tôn, nay con xin thọ trì giới Ưu bà tắc. Kể từ hôm nay cho đến lúc mạng chung, con xa lìa sự sát sanh... nay con xin quy y Phật.

Ðức Phật thuyết như vậy, toán số Bà la môn Mục Kiền Liên nghe đức Phật dạy xong, vui mừng hoan hỷ.

 

PHẬT THUYẾT KINH SỐ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22312)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16031)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15042)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18974)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14456)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18641)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14438)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13600)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13562)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11830)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13277)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13676)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13949)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13259)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15036)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16170)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11091)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16467)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11929)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17609)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12885)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13725)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12867)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14864)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16402)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13139)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12106)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12782)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12928)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12798)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14187)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14140)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16494)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12391)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14400)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11335)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11045)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13203)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13900)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13173)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13013)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13517)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12745)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10241)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13978)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10245)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13713)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16276)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11980)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12990)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11664)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12692)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10808)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11015)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10955)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11908)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12777)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11077)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12634)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11343)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant