Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Anh Vũ

16 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13711)
Kinh Anh Vũ


PHẬT NÓI KINH ANH VŨ


 Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0079 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Lưu Tống, nước Thiên Trúc Tam tạng Cầu Na Bạt Ðà La.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o--- 

 

Nghe như vầy:

Một thời Bạt Già Bà ở tại rừng cây ông Kỳ Ðà, vườn ông Cấp Cô Ðộc, thành Xá vệ.

Bấy giờ đức Thế Tôn sáng sớm thức dậy, mặc y phục, mang bát vào thành Xá vệ để khất thực. Trong khi đi khất thực ở thành Xá vệ, đến nhà của Anh Võ Ma Lao Ðâu La Tử. Khi ấy Anh Võ Ma Lao Ðâu La Tử vì có chút việc nên mới đi ra ngoài không bao lâu. Bấy giờ nhà của Anh Võ Ma Lao Ðâu La Tử có một con chó trắng tên là Cụ. Nó nằm trên nệm đẹp; ăn canh, bắp, thịt ở trong bát vàng. Chó trắng từ xa trông thấy đức Thế Tôn đi lại, thấy rồi nó liền sủa. Ðức Thế Tôn bèn nói như vầy:

–Thôi đi, này chó trắng, không nên phát ra âm thanh như vậy, ngươi vốn là kẻ ngâm nga (âm thanh Phạm chí khất thực).

Khi ấy chó trắng rất tức giận, không hoan hỷ, xuống giường nệm, đến dưới bực cửa, nằm dài im lặng. Sau khi Ma Lao Ðâu La Tử đã trở về nhà, thấy con chó trắng đã xuống giường nệm, nằm dưới bực cửa im lặng, buồn rầu không vui. Thấy rồi hỏi người bên cạnh rằng:

–Ai đã xúc nhiễu con chó trắng này khiến cho nó buồn rầu không vui, xuống giường nệm mà nằm im lặng ở bực cửa vậy?

Này Ma Lao, không có ai xúc nhiễu con chó này làm cho nó buồn rầu không vui, xuống giường nệm rồi nằm im lặng dưới bực cửa. Này Ma Lao, hôm nay có Sa môn Cù Ðàm đến nhà mình khất thực thì con chó trắng liền sủa. Sa môn Cù Ðàm mới nói như vầy: “Thôi đi chó trắng, ngươi không nên phát ra âm thanh như vậy. Ngươi vốn là kẻ ngâm nga kia”. Cho nên này Ma Lao, hôm nay con chó tức giận không vui, xuống giường nệm rồi nằm im ở bực cửa”.

Bấy giờ Anh Võ Ma Lao Ðâu La Tử liền tức giận đối với Thế Tôn, không vui, từ xa mắng nhiếc Thế Tôn, từ xa bài báng Thế Tôn, từ xa giận đức Thế Tôn, rằng:

–Sa môn Cù Ðàm này nói những lời hư vọng như vậy.

Anh Võ ra khỏi thành Xá Vệ rồi đi đến vườn ông Cấp Cô Ðộc, rừng cây ông Kỳ Ðà. Khi ấy đức Thế Tônvô lượng đồ chúng ở phía trước đang đoanh quay vây nghe Ngài thuyết pháp. Ðức Thế Tôn từ xa trông thấy Anh Võ Ma Lao Ðâu La Tử đi đến, thấy rồi đức Thế Tôn liền bào các Tỳ kheo:

–Này các Tỳ kheo, các ngươi có thấy từ đằng xa Anh Võ Ma Lao Ðâu La Tử đi đến chăng?

–Có thấy, thưa Thế Tôn.

–Nếu ngay bây giờ mà Anh Võ Ma Lao Ðâu La Tử mạng chung thì nhanh như co duỗi cánh tay liền sanh vào địa ngục Nê Lê. Vì sao vậy? Vì kẻ ấy đang rất sân hận đối với ta. Nhân vì sân hận nên khi thân hủy hoại mạng chung sanh vào trong Nê Lê ác thú vậy.

Bấy giờ Anh Võ Ma Lao Ðâu La Tử đi đến chỗ đức Thế Tôn, đến rồi thưa đức Thế Tôn rằng:

–Sa môn Cù Ðàm, có phải ngày hôm nay đi đến nhà tôi khất thực chăng?

–Này Ma Lao, ngày hôm nay ta có đến khất thực ở nhà ngươi.

–Vâng, vậy thưa Sa môn Cù Ðàm, con chó trắng ấy có lỗi gì với Ngài mà Ngài làm cho con chó trắng của tôi tức giận không vui, xuống giường nệm, nằm im dưới bực cửa. 

Ðáp rằng:

–Này Ma Lao, sáng sớm thức dậy, mặc y phục xong, mang bát đi vào thành Xá Vệ để khất thực. Khi đi khất thực ở thành Xá Vệ thì đến nhà ngươi, con chó trắng của ngươi từ xa trông thấy ta đi lại, thấy rồi liền sủa. Ta liền nói như vầy: “Thôi đi, này chó trắng, ngươi không nên phát ra âm thanh như vậy. Ngươi vốn là kẻ ngâm nga kia mà. Cho nên này Ma Lao, Con chó trắng liền tức giận không vui, xuống khỏi giường nệm, nằm im dưới bực cửa”.

–Này Cù Ðàm, con chó trắng này vốn có thân thuộc gì với tôi?

–Thôi này Ma Lao, chớ có hỏi. Nếu ngươi nghe rồi sẽ buồn rầu không vui.

Nhưng Anh Võ Ma Lao Ðâu La Tử ba lần hỏi đức Thế Tôn rằng:

–Này Cù Ðàm, con chó trắng này vốn có thân thuộc gì với tôi?

–Này Ma Lao, ngươi đã ba lần hỏi, vậy ta sẽ nói. Này Ma Lao, con chó trắng kiếp trước nó là cha của ngươi, tên là Ðâu La.

Khi đó Anh Võ Ma Lao Ðâu La Tử càng thêm tức giận không vui đối với đức Thế Tôn, mắng nhiếc Thế Tôn, sân hận Thế Tôn, bài báng Thế Tôn rằng:

–Sa môn Cù Ðàm nói lời hư vọng. Này Cù Ðàm, cha tôi là Ðâu La thường hay bố thí, thường có nhà bố thí, thường thờ lửa. Cha tôi chết rồi được sanh lên trời Diệu Phạm Thiên, vậy hà cớ gì mà sanh vào loài chó?

–Này Ma Lao, do lòng tăng thượng mạn của ngươi, cha ngươi là Ðâu La cũng lại như vậy, cho nên phải sanh vào trong loài chó tệ ác.

Ngài nói kệ:

“Phạm Chí tăng thượng mạn,

Chết rồi sanh sáu nẻo:

Gà, heo, chó, dã hồ,

Lừa, ngao trong địa ngục”.

–Này Ma Lao, ta đã nói nếu ngươi không tin, này Ma Lao, ngươi hãy trở về nhà nói với con chó trắng như vầy: “Này chó trắng, quả thật lúc sanh tiền ngươi là Ðâu La, cha của ta thì hãy nhảy lên giường nệm”, này Ma Lao, con chó trắng ấy sẽ nhảy lên giường nệm.

“Này chó trắng, lúc sanh tiền ngươi quả thật là Ðâu La, cha của ta thì hãy ăn canh, bắp, thịt đựng trong bát vàng”, này Ma Lao, con chó trắng ấy sẽ ăn canh, bắp, thịt đựng trong bát vàng.

“Này chó trắng, lúc sanh tiền ngươi quả thật là Ðâu La, cha của ta thì hãy chỉ cho ta chỗ cất giấu tài vật mà ngươi đã cất giấu, ta nay vốn không biết chỗ ấy”, này Ma Lao, con chó trắng ấy sẽ chỉ cho ngươi chỗ cất giấu tài vật của cha ngươi mà ngươi không biết.

Bấy giờ Anh Võ Ma Lao Ðâu La Tử nghe đức Thế Tôn nói, khéo suy tư, nhớ nghĩ, tập trung rồi nhiễu quanh đức Thế Tô, giã từ đức Thế Tôn trở về nhà. Về đến nhà rồi, nói với con chó trắng như vầy:

“Này chó trắng, nếu đời trước ngươi là Ðâu La, cha của ta thì hãy lên ngồi trên giường nệm trở lại!”. Con chó trắng liền ngồi trên giường nệm trở lại.

“Này chó trắng, nếu đời trước ngươi là Ðâu La, cha của ta thì hãy ăn canh, bắp, thịt đựng trong bát vàng”. Con chó trắng liền ăn canh, bắp, thịt đựng trong bát vàng.

“Này chó trắng, nếu đời trước ngươi là Ðâu La, cha của ta thì chó trắng hãy chỉ cho ta tài vật để lại của cha ta mà người đã giấu, hiện nay ta không biết ở chỗ”.

Khi đó con chó nhảy xuống giường rồi đi đến chỗ cái giường mà nó đã nằm đời trước. Ðến rồi, ở dưới bốn chân giường, nó lấy miệng và chân bươi đất. Khi ấy Anh Võ Ma Lao Ðâu La Tử đào lên được rất nhiều tiền tài. Khi đã được rất nhiều tiền tài, trong lòng rất vui sướng, sanh ra thiện tâm, dùng đầu gối chân phải quỳ xuống đất, chắp tay hướng về vườn ông Cấp Cô Ðộc, rừng cây ông Kỳ Ðà, ba lần tự nói lên tên họ: “Lời nói của Sa môn Cù Ðàm là chơn thật. Quả thật Sa môn Cù Ðàm không nói dối. Lành thay Sa môn Cù Ðàm”. Ba lần tự xưng tên họ xong, ra khỏi thành Xá Vệ, đi đến vườn ông Cấp Cô Ðộc, rừng cây ông Kỳ Ðà.

Bấy giờ đức Thế Tônvô lượng trăm ngàn đồ chúng đoanh vây ở phía trước để nghe Ngài thuyết pháp. Ðức Thế Tôn từ xa trông thấy Anh Võ Ma Lao Ðâu La Tử đến, thấy rồi đức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo:

–Này các Tỳ kheo, các ngươi có thấy Anh Võ Ma Lao Ðâu La Tử từ xa đi đến không?

–Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

–Nếu ngay bây giờ mà Anh Võ Ma Lao Ðâu La Tử mạng chung thì nhanh như co duỗi cánh tay liền sanh nơi thiện xứ. Vì sao vậy? Vì kẻ ấy đang có thiện tâm đối với ta vậy. Chúng sanh nhân nơi thiện tâm, nên khi thân hoại mạng chung được sanh chỗ lành, trên trời.

Khi đó Anh Võ Ma Lao Ðâu La Tử đi đến chỗ đức Thế Tôn, đến rồi ra mắt đức Thế Tôn, cùng nhau ủy lạo. Khi đã ra mắt, ủy lạo xong, ngồi qua một bên. Anh Võ Ma Lao Ðâu La Tử đã ngồi qua một bên rồi, đức Thế Tôn bảo:

–Này Ma Lao, như ta đã nói, con chó trắng ấy có đúng như lời ta nói chăng?

–Ðúng như lời Sa môn Cù Ðàm đã nói, con chó trắng ấy đúng thật như vậy, không có gì khác cả. Thưa Sa môn Cù Ðàm, con có điều muốn hỏi, nếu Ngài nghe con mới dám hỏi.

–Này Ma Lao, hãy hỏi theo ý muốn của ngươi.

–Thưa Cù Ðàm, do nhân gì , duyên gì mà cùng thọ thân người lại có người cao, thấp, đẹp, xấu, sạch, dơ? Thưa Cù Ðàm, có người sống lâu, có người chết yểu, có người không bệnh tật, có người bệnh tật. Có người đẹp, có người xấu, có người sang, có người hèn, có người có khả năng, người không có khả năng, người có nhiều tiền tài, người có ít tiền tài, người có ác trí, người có trí tuệ?

–Này Ma Lao, chúng sanh do nhân duyên, nhơn nơi hành động, duyên nơi hành động, do tác động tùy theo hành động của chúng sanh mà khiến cho mỗi mỗi có đẹp, có xấu, có cao, có thấp ... vậy.

–Thưa Sa môn Cù Ðàm, Ngài nói một cách tóm tắt chứ chưa phân biệt nên con không hiểu ý nghĩa này. Cúi mong Sa môn Cù Ðàm hãy vì con mà khéo nói, khiến cho con hiểu rõ. Sa môn Cù Ðàm đã thuyết pháp một cách tóm lược chứ chưa phân biệt rộng rãi để con biết được ý nghĩa ấy.

–Này Ma Lao, hãy khéo lắng nghe và khéo suy nghĩ, tưởng nhớ, ta sẽ nói cho.

–Thưa vâng, bạch Cù Ðàm. Anh Võ Ma Lao Ðâu La Tử thọ nhận lời dạy của Thế Tôn.

Ðức Thế Tôn bảo:

–Này Ma Lao, do nhân gì, do duyên gì mà hoặc người đàn ông, hoặc đàn bà bị chết yểu? Này Ma Lao, hoặc người đàn ông, người đàn bà làm cho máu huyết ô uế chảy đầy cả tay, gần gũi sự ác độc, không có lòng từ, giết hại sanh mạng của tất cả chúng sanh cho đến loài sâu kiến. Do hành vi đó, nhân như vậy, hành như vậy, khi thân hoại mạng chung sanh vào trong Nê Lê ác thú, đời sau sanh ở nhân gian bị chết yểu. Vì sao như vậy? Này Ma Lao, vì nó là hành động giết hại cho nên khiến cho hoặc người đàn ông hay người đàn bà phải chết yểu. Này Ma Lao, đó là nên xem hành động mà biết quả báo vậy.

–Này Ma Lao, lại do nhân gì, do duyên gì mà khiến cho hoặc đàn ông hay người đàn bà được trường thọ? Này Ma Lao, hoặc người đàn ông hay người đàn bà xa lìa sát sanh, vứt bỏ dao gậy, thường ôm lòng hổ thẹn, đối với tất cả chúng sanh muôn khiến cho an ổn, đã diệt trừ ý sát sanh làm cho trong sạch. Kẻ ấy nhơn hành động như vậy, do nhân như vậy, hành như vậy nên khi thân hoại mạng chung được sanh đến cõi lành trên trời, đời sau người đó sanh xuống nhân gian được trường thọ. Vì sao như vậy? Này Ma Lao, kẻ ấy hành động làm cho mạng mình được trường thọ vậy, nên khiến cho hoặc người nam, người nữ xa lìa sát sanh, vứt bỏ sát sanh, do đó, này Ma Lao, nên biết hành động như vậy sẽ đưa đến quả báo như vậy.

–Này Ma Lao, lại do nhân gì, do duyên gì mà khiến cho người nam hay người nữ xúc nhiễu chúng sanh, họ xúc nhiễu chúng sanh hoặc dùng tay hay dùng đá, hoặc lấy gậy hay lấy dao gia hại, họ nhân hành động này, nhân như vậy, hành như vậy nên khi thân hoại mạng chung sanh trong Nê Lê ác thú, đời sau người ấy sanh trong nhân gian bị nhiều bệnh tật. Vì sao như vậy? Này Ma Lao, kẻ ấy đã hành động gây đau khổ vậy, hoặc người nam hoặc người nữ xúc nhiễu chúng sanh như vậy. Cho nên này Ma Lao, nên biết hành động như vậy đưa đến quả báo như vậy.

–Này Ma Lao, lại do nhân gì, do duyên gì mà khiến cho hoặc là người nam hay người nữ không có bệnh hoạn? Này Ma Lao, hoặc là người nam hay người nữ không có xúc nhiễu chúng sanh, do kẻ ấy không có xúc nhiễu chúng sanh, không dùng tay, không dùng đá, không dùng dao, không dùng gậy, kẻ ấy nhân hành động này, do hành động này, nhân do hành động này nên khi thân hoại mạng chung sanh đến chỗ lành, trên trời, đời sau người ấy sanh trong nhân gian không có bệnh khổ. Vì sao vậy? Này Ma Lao, vì kẻ ấy đã tạo hành động không gây đau khổ vậy, nên khiến cho người nam hoặc người nữ không có xúc nhiễu chúng sanh. Cho nên này Ma Lao, nên biết hành động như vậy và bị quả báo như vậy.

–Này Ma Lao, lại do nhân gì, do duyên gì mà người nam hoặc người nữ bị xấu xí? Này Ma Lao, hoặc là người nam hay người nữ có nhiều sân giận, có nhiều ưu sầu. Kẻ ấy người ta nói vài lời nhưng lại sân hận, buồn rầu không vui, trụ nơi sân hận, sanh ra sân hận, bài báng tất cả, nhân hành động như vậy, nhân đó cho nên khi thân hoại mạng chung sanh trong Nê Lê ác thú, đời sau sanh ở nhân gian hình sắc xấu xí. Vì sao vậy? Này Ma Lao, vì kẻ ấy đã tạo hành động xấu ác, nên khiến cho người nam hoặc người nữ sân giận, ưu sầu, do đó này Ma Lao, nên biết vì hành động như vậy nên quả báo như vậy.

–Này Ma Lao, lại do nhân gì, do duyên gì mà khiến cho người nam hoặc người nữ hình sắc tốt đẹp? Này Ma Lao, hoặc là người nam hay người nữ ít có sân hận, không hay ưu sầu. Hoặc có người dùng lời thô ác mắng nhiếc, kẻ ấy cũng sân, không hận, không buồn rầu, không an trụ nơi sân hận, không sanh sân hận, không xử dụng sân hận. Kẻ ấy nhân hành động này, dùng hành động này, nhân hành động này cho nên khi thân hoại mạng chung sanh ở chỗ lành, cõi trời, đời sau người ấy sanh xuống nhân gian hình sắc tuyệt đẹp. Vì sao vậy? Này Ma Lao, kẻ ấy thực hành diệu hạnh vậy, nên khiến cho người nam hoặc người nữ không có sân giận, cũng không ưu sầu. Cho nên này Ma Lao, nên biết vì hành động như vậy nên quả báo như vậy.

–Này Ma Lao, lại do nhân gì, do duyên gì mà khiến cho người nam hoặc người nữ ít có khả năng? Này Ma Lao, hoặc là người nam hay người nữ có lòng tham lam, tật đố, phát ra tham lam tật đố, kẻ ấy thấy người khác được cung kính, bố thí tài vật, liền phát sanh lòng tham lam tật đố, rằng :”Kẻ ấy được như vậy, hãy khiến cho ta cũng được như vậy”. Kẻ ấy nhân hành động này, nhân hành, duyên hành động này cho nên khi thân hoại mạng chung sanh vào trong Nê Lê ác thú, đời sau sanh ở nhân gian thì ít có khả năng. Vì sao vậy? Này Ma Lao, vì kẻ ấy đã tạo ra hành động ít có khả năng, nên khiến cho người nam hoặc người nữ tham lam, tật đố, phát ra tham lam tật đố vậy. Này Ma Lao, nên biết hành động như vậy phải có quả báo như vậy.

–Này Ma Lao, lại do nhân gì, do duyên gì mà người nam hoặc người nữ có khả năng? Này Ma Lao, hoặc là người nam hay người nữ không có tham lam, tật đố, không phát ra tham lam tật đố, kẻ ấy thấy người khác được cung kính, được thí tài vật, nhưng không phát sanh lòng tham lam tật đố, thấy người khác có sở hữu, mong mình cũng được như vậy. Kẻ ấy vì hành động như vậy, nhân hành động này, duyên hành động này cho nên khi thân hoại mạng chung được sanh đến thiện xứ, trên trời, đời sau sanh xuống nhân gian thì rất có khả năng. Vì sao vậy? Này Ma Lao, kẻ ấy đã tạo ra việc làm rất có khả năng, nên khiến người nam hay người nữ không có lòng tham lam, tật đố, không phát ra lòng tham lam tật đố, cho nên, này Ma Lao, nên biết hành động như vậy sẽ có quả báo như vậy.

–Này Ma Lao, lại do nhân gì, do duyên gì mà khiến cho người nam hoặc người nữ sanh vào nhà hạ tiện? Này Ma Lao, hoặc người nam hay người nữ tự đại, kiêu mạn, người đáng cung kính thì không cung kính, người đáng tôn thờ thì không tôn thờ, đáng lễ bái thì không lễ bái, đáng cúng dường thì không cúng dường, đáng mời ngồi thì không mời ngồi, đáng hướng dẫn thì không hướng dẫn, đáng lễ bái, đứng dậy chắp tay hướng về thì không lễ bái, đứng dậy cung kính chắp tay hướng về. Nhân hành động này, duyên hành động này, có hành động như vậy cho nên khi thân hoại mạng chung sanh vào trong Nê Lê ác thú, đời sau sanh xuống nhân gian vào nhà hạ tiện. Vì sao vậy? Này Ma Lao, vì kẻ ấy hành động hạ tiện vậy, nên khiến cho người nam hay người nữ tự đại, kiêu mạn, cho nên, này Ma Lao, nên biết hành động như vậy cho nên quả báo phải như vậy.

–Này Ma Lao, lại do nhân gì, do duyên gì mà khiến cho người nam hoặc người nữ được sanh vào nhà hào quý? Này Ma Lao, hoặc người nam hay người nữ không tự đại, không kiêu mạn, người đáng cung kính thì cung kính, người đáng tôn thờ thì tôn thờ, đáng mời ngồi thì mời ngồi, đáng hướng dẫn thì hướng dẫn, đáng lễ bái, đứng dậy chắp tay hướng về thì lễ bái, đứng dậy cung kính chắp tay hướng về. Kẻ ấy nhân hành động như vậy, duyên hành động như vậy, do hành động như vậy cho nên khi thân hoại mạng chung sanh đến chỗ lành, trên trời, đời sau sanh xuống nhân gian vào nhà hào quý. Vì sao vậy? Này Ma Lao, vì kẻ ấy đã tạo hành động hào quý vậy, nên khiến cho kẻ nam hay người nữ không có tự đại, không kiêu mạn. Này Ma Lao, nên biết hành động như vậy nên quả báo như vậy.

–Này Ma Lao, lại do nhân gì, do duyên gì mà khiến cho người nam hoặc người nữ có ít tiền tài? Này Ma Lao, hoặc người nam hay người nữ không bố thí, cũng chẳng phải là thí chủ, không bố thí cho Sa môn, Bà la môn, kẻ bần cùng hạ tiện từ các nơi tới xin như đồ ăn uống, áo quần, vòng hoa, hương xoa vào người, giường nằm, nhà cửa, đèn sáng, các thứ ... do hành động như vậy, duyên hành động như vậy, vì hành động như vậy nên khi thân hoại mạng chung sanh trong Nê Lê ác thú, đời sau sanh ở nhân gian ít có tiền bạc. Vì sao vậy? Này Ma Lao, kẻ ấy tạo hành động ít có tiền bạc vậy, nên khiến cho người nam hoặc người nữ ít có tiền bạc. Này Ma Lao, nên biết hành động như vậy nên quả báo như vậy.

–Này Ma Lao, lại do nhân gì, do duyên gì mà khiến cho người nam hoặc người nữ có nhiều tiền tài? Này Ma Lao, hoặc người nam hay người nữ là người bố thí, là thí chủ, kẻ ấy bố thí cho Sa môn, Bà la môn, kẻ bần cùng hạ tiện từ các nơi đến xin các thứ như đồ ăn uống, áo quần, vòng hoa, hương xoa vào người, giường nằm, nhà cửa, đèn sáng, các thứ ... nhân làm việc ấy, duyên làm việc ấy, vì hành động như vậy nên khi thân hoại mạng chung sanh đến chỗ lành, trên trời, đời sau sanh xuống nhân gian có nhiều tiền bạc. Vì sao vậy? Này Ma Lao, vì kẻ ấy đã tạo hành động có nhiều tiền bạc vậy, nên khiến cho người nam hoặc người nữ có nhiều tiền bạc. Này Ma Lao, nên biết hành động như vậy nên quả báo như vậy.

–Này Ma Lao, lại do nhân gì, do duyên gì mà khiến cho người nam hoặc người nữ có ác trí? Này Ma Lao, hoặc người nam hay người nữ là chúng sanh không hay đi học hỏi, đó là những bậc có danh tiếng Sa môn, Bà la môn, cho dầu có đến cũng không tùy thời học hỏi ý nghĩa, cũng không luận nghị với các Hiền giả: “Thế nào là thiện, thế nào là bất thiện? Thế nào là tốt, thế nào là không tốt? Thế nào là ác, xấu? Thế nào là đen, là trắng? Thế nào là quả báo đen, thế nào là quả báo trắng? Thế nào là thấy nghĩa của pháp, thế nào là ý nghĩa răn cấm đối với đời sau? Thế nào là thiện, chẳng phải ác?”. Theo những vị ấy nghe rồi không làm giống như điều đã học. Kẻ ấy nhân việc làm như vậy, duyên việc làm như vậy, vì hành động như vậy cho nên khi thân hoại mạng chung sanh trong Nê Lê ác thú, đời sau sanh ở nhân gian có ác trí. Vì sao vậy? Này Ma Lao, kẻ ấy tạo hành động ác trí vậy, nên khiến cho người nam hay người nữ là chúng sanh không hay đi học hỏi. Này Ma Lao, nên biết hành động như vậy nên quả báo như vậy.

–Này Ma Lao, lại do nhân gì, do duyên gì mà khiến cho người nam hoặc người nữ có trí tuệ? Này Ma Lao, hoặc người nam hay người nữ là chúng sanh hay đi học hỏi, đó là đến những vị Sa môn, Bà la môndanh tiếng, đến rồi tùy lúc tùy thời hỏi ý nghĩa lý, có thể luận nghị rằng: “Này chư hiền, sao gọi là thiện, bất thiện? Sao gọi là tốt, không tốt? Sao gọi là xấu, là vi diệu? Sao gọi là đen, sao là trắng? Sao gọi là quả báo đen, quả báo trắng? Sao gọi là thấy nghĩa của pháp? Sao gọi là giới nghĩa của đời sau? Sao gọi là thiện, chẳng phải ác?”. Theo những vị ấy nghe rồi, như điều đã nghe mà học tập. Kẻ ấy nhân hành động như vậy, duyên hành động như vậy, vì hành động như vậy cho nên khi thân hoại mạng được chung sanh ở chỗ lành, trên trời, đời sau sanh xuống nhân gian thì có trí tuệ. Vì sao vậy? Này Ma Lao, vì kẻ ấy tạo hành động trí tuệ vậy. Do đó nên khiến cho người nam hay người nữ là chúng sanh hay đi học hỏi, bởi vậy, này Ma Lao, nên biết hành động như vậy nên quả báo như vậy.

Này Ma Lao, nếu tạo hành động chết yểu thì bị chết yểu, nếu tạo hành động sống lâu thì được sống lâu, nếu tạo hành động nhiều bệnh thì bị nhiều bệnh. Nếu tạo hành động không bệnh, thì được không bệnh, nếu tạo hành động xấu thì bị xấu. Nếu tạo hành động thân hình đẹp thì được thân hình đẹp. Nếu tạo hành động có ít khả năng thì bị ít khả năng. Nếu tạo hành động hạ tiện thì bị hạ tiện, nếu tạo hành động hào quý, thì được hào quý. Nếu tạo hành động ít tiền của thì có ít tiền của, nếu tạo hành động có nhiều tiền của thì được nhiều tiền của. Nếu tạo hành động ác trí thì bị ác trí, nếu tạo hành động trí tuệ thì được trí tuệ. Vì vậy cho nên, này Ma Lao, ta mới nói như vậy.

Này Ma Lao, tùy theo chúng sanh đã tạo ra hành động nhân hành động ấy, duyên hành động ấy, vì hành động chúng sanh đã làm nên đối với tất cả liền có sự cao, thấp, đẹp, xấu.

Ðã trọn vẹn rồi, thưa Cù Ðàm! Ðã trọn vẹn rồi, thưa Cù Ðàm! Kính bạch Thế Tôn, hôm nay con xin tự quy Pháp và Tỳ kheo tăng. Thưa đức Thế Tôn, hôm nay con xin giữ giới Ưu bà tắc. Từ hôm nay cho đến lúc mạng chung, con xin xa lìa sự sát sanh... con xin quy y đức Thế Tôn. Từ hôm nay, mỗi sáng sớm vào thành Xá Vệ, Ngài vào nhà Ưu bà tắc khác thì cũng vào nhà Ðâu La như vậy, khiến cho nhà của Ðâu La được lợi nghĩa, được nhiều lợi ích, được an ổn.

Ðức Phật nói như vậy, Anh Võ Ma Lao Ðâu La Tử nghe đức Thế Tôn nói hoan hỷ lui ra.

 

PHẬT NÓI KINH ANH VÕ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12504)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10391)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12351)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11654)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28814)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12056)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13014)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11448)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12383)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17449)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53069)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35494)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21407)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10679)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19245)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12410)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26052)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13322)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14388)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16094)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13731)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16852)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17594)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13137)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12539)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11614)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11623)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14514)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20489)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18998)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19583)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18663)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12190)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12325)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13867)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15035)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15042)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13996)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15530)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17201)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14985)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20214)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14629)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13854)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11714)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15070)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13000)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22893)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14562)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11665)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13174)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16891)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18351)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11949)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11508)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15859)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12893)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18926)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18431)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant