Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Phân Biệt Bố Thí

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13236)
Kinh Phân Biệt Bố Thí


PHẬT NÓI KINH PHÂN BIỆT BỐ THÍ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0084 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tống Tây Thiên, Tam Tạng Ðại sư Thi Hộ phụng chiếu.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o--- 

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại vườn cây Ni Câu Ðà, thành Ca Tỳ La Vệ, trụ xứ của dòng họ Thích, cùng chúng Bí sô đông đủ.

Bấy giờ có một vị Bí sô ni tên là Ma Ha Ba Xà Ba Ðề mang y mới đi đến chỗ đức Phật. Ðến chỗ đức Phật rồi, cúi lạy dưới chân Phật rồi đứng qua một bên, bạch đức Phật:

–Thưa Thế Tôn, cái y mới này được dệt bằng sợi kim tuyến chính tay con may ra để dâng lên đức Thế Tôn. Cúi mong đức Thế Tôn thọ nhận để cho con mãi mãi được sự lợi lạc lớn.

Khi ấy, đức Phật bảo bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề:

–Ngươi có thể đem cái y này bố thí cho đại chúng sẽ được lợi lạc cũng giống như cúng dường cho ta không có khác gì cả.

Lúc đó, Bí sô ni Ma Ha Ba Xà Ba Ðề lại bạch đức Phật:

–Con vốn phát tâm tạo ra y này là chỉ để cúng cho Thế Tôn mà thôi. Cúi mong đức Phật hãy thọ nhận để cho con mãi mãi được lợi lạc lớn.

Ba lần ân cần khuyến thỉnh như vậy, đức Phật cũng ba lần đáp lại như vầy:

–Hãy nên bình đẳngbố thí cho đại chúng sẽ đạt được sự lợi lạc không khác gì bố thí cho ta vậy.

Bấy giờ tôn giả A Nan đang đứng hầu một bên đức Phật thấy việc này rồi, đến trước bạch đức Phật rằng:

–Thưa Thế Tôn, Bí sô ni Ma Ha Ba Xà Ba Ðề này là người thân hữu, có ân đức đối với Phật. Cúi mong đức Phật tự biết, bà đã dâng y mong Phật, nay đã đúng thời, thọ nhận để cho Ma Ha Ba Xà Ba Ðề mãi mãi được lợi lạc lớn.

Ðức Phật bảo ngài A Nan:

–Ðúng vậy, đúng vậy! Ma Ha Ba Xà Ba Ðề này là người thân quyến, có ân đức lớn đối với ta, ta cũng tự biết như vậy. Chính tự tay bà đã tạo ra y này để dâng cho ta, đây là việc hết sức khó khăn. Vì sao vậy? A Nan nên biết, nếu có Bổ Ðặc Già La nào có thể khởi lên tín tâm thanh tịnh, quy y Phật, Pháp và Tăng, điều đó rất khó.

Lại nữa, người ấy có thể giữ giới không giết, không trộm, không dâm, không vọng ngữ, không uống rượu ... thân cận tôn thờ giới luật, như vậy Bổ Ðặc Già La ấy lại có thể làm việc khó làm. Huống chi đối với Phật Thế Tônchắp tay cung kính thực hành bố thí, đã bố thí rồi, tịnh tín nơi đức Phật không có nghi ngờ và đối với Pháp, Tăng già cũng không có nghi hoặc, cho đến đạo lý của Tứ Thánh Ðế là Khổ, Tập, Diệt, Ðạo đã vĩnh viễn đoạn trừ nghi kiến.

Này A Nan, nay Bí sô ni Ma Ha Ba Xà Ba Ðề này có thể khởi lên tín tâm, thanh tịnh, quy y Phật, Pháp và Tăng, thọ trì giới không giết, không trộm, không dâm, không vọng ngữ, không uống rượu ... thọ giới pháp cận sự rồi còn có thể đối với Phật, Pháp, Tăng già cho đến đạo lý của Tứ Thánh Ðế là Khổ, Tập, Diệt, Ðạo đã đoạn trừ nghi hoặc. Bí sô ni này, việc khó làm mà có thể làm được, Phật cũng tự biết như vậy.

Này A Nan, có mười bốn thứ để so lường sự bố thí. Những gì là mười bốn?

1. Thực hành bố thí đối với người bệnh khổ.

2. Thực hành bố thí đối với người phá giới.

3. Thực hành bố thí đối với người trì giới.

4. Thực hành bố thí đối với người lìa ô nhiễm.

5. Thực hành bố thí đối với người Tu đà hoàn hướng.

6. Thực hành bố thí đối với người Tu đà hoàn quả.

7. Thực hành bố thí đối với người Tư đà hàm hướng.

8. Thực hành bố thí đối với người Tư đà hàm quả.

9. Thực hành bố thí đối với người A na hàm hướng.

10. Thực hành bố thí đối với người A na hàm quả.

11. Thực hành bố thí đối với người A la hán hướng.

12. Thực hành bố thí đối với người A la hán quả.

13. Thực hành bố thí đối với các vị Duyên giác.

14. Thực hành bố thí đối với Như Lai Ứng cúng Chánh Ðẳng Giác.

Này A Nan, nay ngươi nên biết, bố thí cho người bệnh khổ được phước gấp đôi, bố thí cho người phá giới được phước gấp trăm, bố thí cho người trì giới được phước gấp ngàn, bố thí cho người ly nhiễm (dục) được phước gấp trăm ngàn. Bố thí cho vị Tu đà hoàn hướng được phước vô lượng, huống chi là bố thí cho vị Tư đà hàm quả. Bố thí cho vị A na hàm hướng được phước vô lượng, huống chi là bố thí cho vị A na hàm quả. Bố thí cho vị A la hán hướng được phước vô lượng, huống chi là bố thí cho vị A la hán quả. Bố thí cho vị Duyên giác được phước vô lượng, huống chi là bố thí đức Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng Chánh giác. Như vậy gọi là so lường mười bốn công đức bố thí.

Lại nữa, này A Nan, nên biết bố thí cho đại chúng có bảy loại:

1. Bố thí cho các Bí sô chúng khi Phật còn hiện tiền.

2. Bố thí cho các Bí sô chúng sau khi Phật diệt độ.

3. Bố thí cho chúng Bí sô ni sau khi Phật diệt độ.

4. Bố thí cho hai chúng Bí sô và Bí sô ni sau khi Phật diệt độ.

5. Bố thí cho các chúng Bí sô du phương hành hóa sau khi Phật diệt độ.

6. Bố thí cho chúng Bí sô ni du phương hành hóa sau khi Phật diệt độ.

7. Bố thí cho hai chúng Bí sô và Bí sô ni du phương hành hóa sau khi Phật diệt độ.

Như vậy gọi là bảy loại đại chúng cần nên bố thí.

Lại nữa, này A Nan, nên biết có bốn loại bố thí thanh tịnh. Những gì là bốn?

1. Người bố thí thanh tịnh thì không thấy có người nhận.

2. Vật được thí thanh tịnh thì không thấy có người nhận.

3. Người thọ nhận thanh tịnh thì không thấy có người bố thí.

4. Vật được thọ nhận thanh tịnh thì không thấy có người thí.

Này A Nan, sao gọi là người bố thí thanh tịnh thì không thấy có người thọ nhận?

–Ðó là do người bố thí không chấp thủ hình tướng, nên thân nghiệp thanh tịnh, khẩu nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh, chánh mạng thanh tịnh, cái thấy cũng thanh tịnh. Ðầy đủ như vậy liền không có tướng thí, vì không có người thí cho nên cũng không có người nhận. Nếu người thí mà có thấy tướng thì ba nghiệp thân, khẩu, ý không thanh tịnh, mạng cũng không thanh tịnh, cái thấy cũng không thanh tịnh. Nếu xa lìa cái tướng này thì người thí và người nhận, cả hai đều thanh tịnh.

Lại nữa, tại sao gọi là vật được thí thanh tịnh thì không thấy có người nhận?

–Nếu kẻ thọ nhận thân nghiệp không thanh tịnh, khẩu nghiệp không thanh tịnh, ý nghiệp không thanh tịnh, mạng không thanh tịnh, cái thấy không thanh tịnh, thì liền có tướng nơi đối tượng bố thí. Nếu người thọ nhận mà ba nghiệp thanh tịnh, mạng thanh tịnh, cái thấy thanh tịnh, đầy đủ như vậy liền không có cái tướng của đối tượng bố thí. Do xa lìa tướng cho nên đối tượng bố thí được thanh tịnh.

Lại nữa, sao gọi là người thọ nhận thanh tịnh liền không có người thí?

–Nếu người thọ nhận mà ba nghiệp thân, khẩu, ý không thanh tịnh, mạng cũng không thanh tịnh, cái thấy cũng không thanh tịnh, thì liền có tướng của người thọ. Nếu lìa tướng ấy liền không có người thí.

Lại nữa, sao gọi là vật được thọ nhận thanh tịnh liền không có người thí?

–Ðó là do người thí, ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh, mạng thanh tịnh, cái thấy cũng thanh tịnh liền không có vật được thí. Do lìa người thí, liền không có người được thọ nhận. Cho nên đối tượng thọ nhận thanh tịnh.

Này A Nan, nếu hay biết rõ như vậy, liền được bốn loại bố thí thanh tịnh.

Bấy giờ Bí sô ni Ma Ha Ba Xà Ba Ðề nghe Phật tuyên thuyết những pháp bố thí rồi, liền cầm cái y ấy cúng cho đại chúng.

Khi ấy chúng Bí sô liền thọ nhận. Ðức Phật bảo ngài A Nan:

–Ở trong đời vị lai, nếu có thiện nam tử ... tín tâm có thể đối với đại chúng khởi tâm tịnh tín làm việc bố thí, nên biết kẻ ấy được phước vô lượng, huống chi ngay nơi hiện tạithực hành bố thí.

Bấy giờ tôn giả A Nan và Bí sô ni Ma Ha Ba Xà Ba Ðề nghe Phật nói xong, hoan hỷ, phấn khởi, tín thọ phụng hành.

 

PHẬT NÓI KINH PHÂN BIỆT BỐ THÍ

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13691)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25364)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13768)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15078)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17689)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17099)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14194)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13172)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14424)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19723)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16739)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18594)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19028)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18841)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21147)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14780)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39151)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14391)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19347)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14696)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16137)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14691)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15226)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14890)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15546)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39101)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14105)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24497)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14367)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19429)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 17992)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21439)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19682)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17494)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14813)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13877)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13750)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14111)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21890)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16734)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15232)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14525)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14034)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14337)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15645)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14305)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 15002)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18535)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24657)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23093)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28529)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15060)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14102)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14629)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18282)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26507)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15179)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14830)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15188)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15133)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant