Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Ứng Pháp

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13788)
Kinh Ứng Pháp

PHẬT NÓI KINH ỨNG PHÁP


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0083 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tây Tấn, Tam Tạng Trúc Pháp Hộ

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---


Nghe như vầy:

Một thời Bà già bà ở tại xứ Pháp Trị, nước Câu loại. Bấy giờ đức Phật bảo các Tỳ kheo:

–Nay ở thế gian này, dâm như vậy, dục như vậy, ái như vậy, lạc như vậy, hỷ như vậy, chỉ là pháp bại hoại không nên ái, không nên nhớ nghĩ. Nếu ái và nhớ nghĩ tăng, thì các thứ dâm như vậy, dục như vậy, ái như vậy, lạc như vậy, hỷ như vậy, khiến cho bất thiện pháp chuyển tăng, ái thiện pháp chuyển giảm. Pháp của ta rất sâu xa, khó thấy, khó giác, khó rõ, khó biết. Pháp của ta thậm thâm khó thấy, khó giác, khó rõ, khó biết như vậy, mà nay khiến cho sự không ưa thiện pháp tổn giảm, sự ưa thiện pháp tăng trưởng, cùng bốn pháp này tương ưng, thế gian có việc này. Thế nào là bốn?

–Có pháp tương ưng hiện tại vui nhưng về sau thọ quả báo khổ.

–Có pháp tương ưng hiện tại khổ nhưng về sau thọ quả báo vui.

–Có pháp tương ưng hiện tại khổ, về sau thọ quả báo khổ.

–Có pháp tương ưng hiện tại vui, về sau thọ quả báo vui.

+ Thế nào là có pháp tương ưng hiện tại vui, về sau thọ quả báo khổ?

Hoặc có người tự mình chuyên ưa thích, hoan hỷ làm việc sát hại, nhân việc sát mà lấy làm sung sướng, lấy làm hoan hỷ. Kẻ ấy sung sướng, hoan hỷ việc không cho mà lấy, hành dâm dục, nói dối, cho đến tà kiến. Nhân tà kiến này mà lấy đó làm hoan hỷ, lấy đó làm vui sướng. Kẻ ấy thân ưa thích, ý ưa thích việc bất thiện như vậy là bất thiện, nên cũng không đạt được thần thông, không đưa đến Ðẳng Ðạo, không tương ưng với Niết-bàn. Pháp này tương ưng hiện tại vui sướng nhưng về sau thọ quả báo khổ.

+ Thế nào là pháp tương ưng hiện tại khổ nhưng về sau thọ quả báo vui?

Hoặc có người chuyên tự làm khổ, không làm vui, từ bỏ nguyên nhân sát hại, từ bỏ sát hại, vì làm khổ, vì làm không vui, kẻ ấy tự làm khổ, không thích làm việc không cho mà lấy, hành dâm dục, nói dối ... cho đến tà kiến. Nhân xả bỏ tà kiến, làm đẳng kiến, cho là khổ, cho là không vui. Thân hành khổ, ý hành khổ, như vậy thiện là thiện, thành thần thông, đưa đến Ðẳng đạo, cùng tương ưng với Niết - bàn, cùng tương ưng với pháp này cho nên hiện tại khổ nhưng về sau thọ quả báo vui.

+ Thế nào là pháp tương ưng hiện tại khổ, về sau thọ quả báo khổ?

Hoặc có người chuyên tự làm khổ, tự mình không hoan hỷ, làm việc giết hại, nhân giết hại cho nên mới bị khổ, không hoan hỷ. Kẻ ấy tự mình khổ, tự làm điều không hoan hỷ, không cho mà lấy, hành dâm dục, nói dối ... cho đến tà kiến. Nhân tà kiến mới không được an lạc, không hoan hỷ. Thân làm khổ, ý làm khổ như vậy, làm bất thiện phải thọ lãnh bất thiện, không thành thần thông, không đưa đến Ðẳng đạo, không tương ưng với Niết bàn. Tương ưng với pháp này cho nên hiện tại khổ, về sau thọ báo khổ.

+ Thế nào là pháp tương ưng hiện tại vui, về sau thọ quả báo vui?

Hoặc có người chuyên tự làm điều vui, tự làm việc hoan hỷ, xả bỏ việc sát hại, nhân xả bỏ sát hại lấy đó làm vui, lấy đó làm thích. Kẻ ấy vui thích xả bỏ việc không cho mà lấy, hành dâm dục, nói dối, cho đến tà kiến. Nhân xả bỏ tà kiến cho đó là vui, cho đó là thích. Thân ưa thích, ý ưa thích, như vậy, làm thiện là thiện nên thành thần thông, cho đến Ðẳng đạo, cùng tương ưng với Niết bàn, cho nên hiện tại vui mà đời sau thọ báo vui.

Cái gọi là cùng pháp này tương ưng hiện tại vui, về sau thọ báo khổ, không phải là huệ, người có trí huệ thuyết, không biết như chơn, cùng tương ưng với pháp này cho nên hiện tại vui mà về sau thọ báo khổ. Kẻ ấy không biết như chơn như vậy, làm mà không xả bỏ. Vì kẻ ấy làm mà không xả bỏ cho nên pháp không ái, không lạc được tăng trưởng, còn pháp đáng ái, đáng lạc thì trở lại bị tổn giảm, giống như loại thuốc A Ma Ni, đầy đủ sắc, đầy đủ hương, đầy đủ vị, vì xen lẫn với độc, có người bị bệnh liền uống vào. Kẻ đó uống vào khỏi miệng, khi uống thuốc không dừng ở cổ, uống xong liền biến thành chẳng phải thuốc. Như vậy cùng pháp này tương ưng hiện tại vui mà về sau thọ báo khổ, chẳng phải là trí tuệ, vì chẳng phải là trí tuệ cho nên không biết như chơn, cùng pháp này tương ưng, hiện tại vui mà về sau thọ báo khổ. Vì kẻ ấy không biết như chơn, thực hành, không xả bỏ. Vì kẻ ấy thực hành không xả bỏ cho nên pháp không ái, pháp không lạc tăng trưởng; còn pháp ái, pháp lạc thì lại tổn giảm. Pháp đó chẳng phải là trí tuệ vậy.

Tương ưng với pháp này, hiện tại khổ mà về sau được quả báo vui, chẳng phải trí tuệ, vì chẳng phải trí tuệ cho nên không biết như chơn, cùng pháp này tương ưng cho nên hiện tại khổ, về sau thọ quả báo vui. Kẻ ấy không biết như chơn, cũng không hành, lại xả bỏ, do kẻ ấy không thực hành mà lại xả bỏ cho nên pháp không ái, không lạc tăng trưởng, còn pháp ái, hỷ thì bị tổn giảm. Pháp này chẳng phải trí tuệ, vì tương ưng với pháp ấy cho nên hiện tại khổ mà về sau thọ báo khổ, chẳng phải là trí tuệ, vì chẳng phải là trí tuệ, cùng pháp này tương ưng cho nên hiện tại khổ, về sau thọ báo khổ. không biết như chơn nên kẻ ấy làm mà không bỏ, vì kẻ ấy làm mà không bỏ cho nên pháp không ái, không lạc tăng trưởng, mà pháp ái, pháp lạc thì bị tổn giảm, giống như đại tiện tiểu tiện bị độc tố rồi có người có bệnh lấy thứ đó mà uống, khi kẻ ấy uống, cổ đau đớn không nuốt xuống được và hôi thối, vô vị. Khi uống vào làm hư cổ, uống xong biến thành chẳng phải thuốc. Như vậy tương ưng với pháp này nên hiện tại khổ, về sau thọ báo khổ. Vì không biết như chơn, tương ưng với pháp này nên hiện tại khổ, về sau thọ báo khổ. Vì kẻ ấy không biết như chơn, thực hành không xả bỏ, vì thực hành không xả bỏ cho nên pháp không ái, không hỷ dần dần tăng trưởng, còn pháp ái, hỷ dần dần bị tổn giảm. Pháp này không phải trí tuệ vậy.

Tương ưng với pháp này hiện tại vui, về sau được quả báo vui, chẳng phải trí tuệ, do bậc trí tuệ nói ra, không biết như chơn, tương ưng với pháp này hiện tại vui, về sau được quả báo vui. Kẻ ấy không biết như chơn nên không thực hành việc xả bỏ xa lìa. Vì không vứt bỏ, không xa lìa nên pháp không ái, không hỷ dần dần tăng trưởng, còn pháp ái, hỷ dần dần tổn giảm. Pháp này chẳng phải trí tuệ, kẻ ấy thực hành pháp biết như chơn, kẻ ấy không thực hành pháp biết như chơn, kẻ ấy thực hành pháp tri như chơn, kẻ kia không thực hành pháp tri như chơn nên chưa thực hành pháp đáng hành, hành pháp không đáng hành. Kẻ ấy chưa hành pháp đáng hành mà lại hành pháp không nên hành, do đó bất thiện pháp dần dần tăng trưởng, thiện pháp dần dần tổn giảm. Pháp này chẳng phải trí tuệ.

Tương ưng với pháp này hiện tại vui, về sau thọ báo khổ, do bậc trí tuệ, người trí tuệ nói ra, biết như chơn. Vì tương ưng với pháp này nên hiện tại vui, về sau thọ báo khổ. Kẻ ấy tri như chơn như vậy, kẻ ấy không làm mà xả bỏ, viễn ly, do không làm, xả bỏ viễn ly rồi, kẻ ấy liền không làm, xả bỏ viễn ly nên pháp bất thiện tổn giảm, thiện pháp được tăng trưởng. Pháp này là trí tuệ.

Tương ưng với pháp này hiện tại khổ, về sau thọ báo vui. Ðó là trí tuệ, bậc trí giả nói ra, biết điều này chơn thật, vì kẻ ấy tương ưng với pháp này nên hiện tại khổ, về sau thọ quả báo vui, người ấy tri như chơn như vậy. Kẻ ấy làm không xả bỏ, không làm không xả bỏ rồi, pháp không ái, không hỷ tổn giảm, pháp ái, pháp hỷ tăng trưởng. Pháp này là trí tuệ, giống như đại tiểu tiện các thứ dược thảo xen lẫn, có người bị bệnh lấy để uống. Khi kẻ ấy uống, không dừng ở cổ, lúc uống làm phá hoại cổ, uống xong công hiệu như dược pháp. Như vậy tương ưng với pháp này hiện tại khổ, nhưng về sau thọ báo vui. Ðó là trí tuệ, trí giả nói ra, biết như chơn. Ðó là tương ưng pháp này hiện tại khổ, về sau thọ báo vui. Kẻ ấy biết như chơn như vậy, thực hành không xả bỏ, do hành không xả bỏ rồi cho nên pháp không ái, không hỷ tổn giảm, pháp ái, hỷ được tăng trưởng. Pháp đó là trí tuệ.

Tương ưng pháp này hiện tại khổ, về sau thọ quả báo khổ, là bậc trí tuệ, bậc trí tuệ nói ra, biết như chơn. Ðó là tương ưng với pháp này, hiện tại khổ, sau thọ quả báo khổ, kẻ ấy tri như chơn như vậy, kẻ ấy không làm sự xả bỏ xa lìa, vì không thực hành sự xả bỏ xa lìa nên pháp không ái, không hỷ tổn giảm; pháp ái, hỷ được tăng trưởng. Pháp này là trí tuệ.

Tương ưng pháp này hiện tại vui, về sau thọ quả báo vui. Ðó là pháp trí tuệ do bậc trí tuệ nói ra, nghĩa là tương ưng pháp này hiện tại vui, về sau thọ quả báo vui. Vị ấy biết như vậy là chơn thật, vị ấy biết pháp nào cần xả ly, hoặc không cần xả ly, cho nên pháp không yêu thích thì giảm trừ, pháp yêu thích được tăng trưởng. Pháp này là trí tuệ. Giống như tô mật xen lẫn các thứ thuốc, có người bị bệnh liền uống vào, khi uống vào làm cho cổ thông lợi, khi uống không dừng ở cổ, uống xong ứng nghiệm như dược pháp. Như vậy tương ưng với pháp này hiện tại vui, về sau thọ báo vui. Ðó là trí tuệ, bậc trí tuệ nói ra, biết như thật. Ðó là tương ưng với pháp này, hiện tại được vui, về sau thọ báo vui. Kẻ ấy biết như vậy là chơn thật, hành bất xả ly, do hành bất xả ly nên pháp không yêu thích và không đáng nhớ nghĩ bị tổn giảm và pháp yêu thích, nhớ nghĩ được tăng trưởng. Pháp này là trí tuệ, bậc trí tuệ nói ra, vị ấy thực hành pháp này rồi, biết như thật, không hành pháp này rồi biết như thật; vị ấy hành pháp biết như thật, không hành pháp biết như thật. Pháp không hành liền không hành, pháp nên hành thì phải hành. Kẻ ấy, pháp không hành liền không hành, pháp nên hành thì phải hành, nên pháp bất thiện được tổn giảm, pháp thiện được tăng trưởng. Pháp này là trí tuệ, trí tuệ, tương ưng với bốn pháp này, thế gian có thuyết này, đó chính là nguyên nhân thuyết kinh này.

Ðức Phật nói như vậy, các Tỳ kheo nghe đức Thế tôn đã dạy, hoan hỷ vui mừng.

 

PHẬT NÓI KINH “ỨNG PHÁP” 

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13743)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25450)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13823)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15154)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17759)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17146)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14262)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13236)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14493)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19828)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16795)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18684)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19125)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18944)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21206)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14832)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39222)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14465)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19450)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14771)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16193)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14753)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15263)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14974)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15606)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39229)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14182)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24588)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14448)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19512)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 18080)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21519)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19735)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17573)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14895)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13944)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13819)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14177)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21962)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16788)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15275)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14590)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14108)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14399)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15716)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14367)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 15088)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18624)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24723)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23163)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28627)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15096)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14158)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14709)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18373)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26577)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15251)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14895)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15246)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15219)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant