Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quyển 1

22 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 10400)
Quyển 1

 

KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM


Đời Đường, sa môn Bát Lạt Mật Đế (người Trung-Thiên-trúc) dịch từ Phạn văn ra Hán văn

Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn và chú thích


Quyển 1


- Duyên Khởi

 - Tâm Ở Chỗ Nào?

 - Tánh Thấy Không Phải Con Mắt

 

 

Đây là những điều chính tôi được nghe:

Thuở đó Phật ngự tại tinh xá Kì-hoàn(3) ở thành Thất-la-phiệt(4), với đầy đủ đại chúng tì kheo gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị, đều là các bậc vô lậu đại A-la-hán(5), trong đó có quí vị tôn giả Đại Trí Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Đại Câu Hi La, Phú Lâu Na, Tu Bồ Đề, Ưu Bà Ni Sa Đà, vân vân. Quí vị tôn giả đó đều là bậc thượng thủ trong đại chúng, là những vị Phật tử trụ trì(6), đã vượt thoát ba cõi, nhưng vẫn ở nơi quốc độ này mà thành tựu các uy nghi; thường theo Phật giúp chuyển pháp luân, giới hạnh nghiêm tịnh, làm khuôn mẫu cho khắp ba cõi; có đầy đủ khả năng kham nhận sự phú chúc của Phật, ứng hiện vô số thân để cứu độ chúng sinh, trải suốt hiện tại vị lai đều được giải thoát.

Hôm ấy lại nhằm ngày mãn hạ tự tứ của đại chúng tì kheo, nên có vô lượng chư vị Bích-chi vô học(7) cùng với các đệ tử sơ phát tâm(8), cũng cùng nhau vân tập đến chỗ Phật; đồng thời, chư vị Bồ-tát từ mười phương cũng đến xin Phật giải tỏa cho những điều còn nghi ngờ, kính vâng đức Từ Nghiêm(9), thỉnh cầu được nghe giáo nghĩa thâm mật.

Bấy giờ đức Thế Tôn tự trải tọa cụ, ngồi an lạc, vì tất cả hội chúng mà tuyên dạy pháp bí áo thâm diệu. Toàn thể thính chúng thanh tịnh trong pháp hội được nghe giáo pháp chưa từng có.

Pháp âm của Phật nghe hòa nhã như tiếng chim ca-lăng-tần-già(10), vang khắp thế giới mười phương; vô số Bồ-tát, do ngài Văn Thù Sư Lợi làm thượng thủ, cùng vân tập đến đạo tràng.

Lúc bấy giờ vua Ba Tư Nặc(11), nhân ngày húy kị phụ vương, đã thỉnh Phật vào cung để cúng dường ngọ trai. Nhà vua sắm sửa đầy đủ các món ăn trân quí, rồi đích thân đi rước đức Phật cùng chư vị đại Bồ-tát.

Vào giờ đó, quí vị trưởng giả, cư sĩ ở trong thành Thất-la-phiệt cũng đã sắm sửa trai phạn sẵn sàng, đang chờ Phật đến ứng cúng. Đức Phật ủy thác cho ngài Văn Thù chia quí vị Bồ-tát và A-la-hán đi đến các nhà thí chủ để ứng trai; chỉ trừ đại đức A Nan, vì trước đó đã nhận lời mời riêng, đi xa không về kịp giờ để dự vào hàng với tăng chúng. Đại đức về trễ và đi một mình, không có vị thượng tọa hay a xà lê nào đi cùng. Hôm ấy không được ai cúng dường, cho nên đại đức phải ôm bình bát đi vào thành, theo thứ lớp mà khất thực(12). Trong tâm, đại đức chỉ mong được một người đàn việt cuối cùng làm trai chủ(13), không kể người đó là sang hay hèn, thuộc giai cấp quí tộc hay hạ tiện. Đại đức không chê bỏ kẻ nghèo hèn, chỉ cốt thực hiện lòng từ bình đẳng, phát tâm thành tựu trọn vẹn vô lượng công đức cho tất cả mọi người. Đại đức biết rằng, đức Thế Tôn đã từng quở trách hai vị tôn giả Tu Bồ ĐềĐại Ca Diếp, là các bậc A-la-hán mà tâm không bình đẳng(14). Vì kính ngưỡng đức Thế Tôn, đại đức nguyện phát lòng từ vô hạn, làm cho mọi người không thể khởi tâm nghi ngờ hay hủy báng.

Đại đức qua khỏi hào thành, chậm rãi khoan thai bước vào cổng thành, uy nghi nghiêm chỉnh, giữ đúng phép tắc hóa trai.

Lúc bấy giờ, đại đức A Nan, nhân thực hành phép khất thực theo thứ tự, đã đi qua nhà dâm nữ, liền bị mắc phải huyễn thuật của nàng Ma Đăng Già(15). Cô ấy đã dùng thần chú “Tiên Phạm Thiên” do đạo sĩ Ta Tì Ca La(16) trao cho để làm cho đại đức bị mê muội, rồi kéo vào phòng, dựa kề vuốt ve, giới thể của đại đức suýt bị hủy hoại!

Đức Phật biết rõ đại đức A Nan đang bị dâm thuật bức hại, cho nên thọ trai xong, Ngài lập tức trở về tinh xá. Vua Ba Tư Nặc, quí vị đại thần, trưởng giả, cư sĩ cũng đều theo Phật đến tinh xá, mong được nghe giáo pháp thâm yếu.

Bấy giờ đức Thế Tôn, từ trên đỉnh đầu phóng ra ánh sáng báu vô úy(17), trong ánh sáng ấy lại xuất hiện tòa sen báu ngàn cánh, trên đó có hóa thân của Phật ngồi kiết già, tuyên nói thần chú. Đức Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi đem thần chú ấy đến cứu hộ, tiêu trừ ác chú, dẫn đại đức A Nan cùng nàng Ma Đăng Già đem về chỗ Phật.

Đại đức A Nan trông thấy Phật, vừa đảnh lễ vừa buồn khóc, tự hận mình từ trước đến nay, chỉ chuyên học rộng nhớ nhiều, mà định lực thì hoàn toàn kém cỏi. Giờ đây đại đức thành khẩn cầu xin Phật chỉ dạy cho các pháp xa-ma-tha, tam-ma và thiền-na(18), là những phương tiện tu tập đầu tiên của các đức Như Lai trong mười phương để tiến đến thành tựu đạo quả Vô Thượng Bồ Đề. Lúc ấy còn có vô số chư vị Bồ-tát và đại A-la-hán, Bích-chi Phật từ mười phương đến, cũng mong muốn được nghe, đều ngồi vào chỗ của mình, yên lặng chờ tiếp nhận kim ngôn của Phật.

Đức Phật bảo đại đức A Nan:

Như Lai cùng với thầy đồng một tổ tông, tình như ruột thịt(19). Lúc thầy mới phát tâm, ở trong giáo pháp của Như Lai, thầy thấy có tướng tốt gì mà xả bỏ ngay được những ân ái sâu nặng của thế gian để đi xuất gia?

Đại đức A Nan bạch Phật:

– Con thấy ba mươi hai tướng của đức Thế Tôn cực kì tốt đẹp, hình thể trong sáng như ngọc lưu li. Con thường suy nghĩ, những tướng tốt này không phải do ái dục sinh ra, vì sao? Tính chất của dâm dục là thô trọng, dơ nhớp, là sự giao hợp tanh hôi, máu mủ xen lộn, thì không thể sinh ra thân tướng vàng kim sáng rỡ, trong sạch, tốt đẹp vi diệu như thế được; cho nên con đã khát ngưỡng mà theo Phật cạo tóc xuất gia.

Phật dạy:

Lành thay A Nan! Thầy và đại chúng nên biết, tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, tiếp nối lưu chuyển trong dòng sinh tử, đều do không nhận biết được thể tính trong sạch sáng suốt của chân tâm thường trú, mà chỉ sống hoàn toàn bằng vọng tưởng; vì vọng tưởng là không chân thật, cho nên mới có luân hồi sinh tử. Hôm nay thầy muốn cầu đạo Vô Thượng Bồ Đề, thấy rõ chân tánh, thì hãy lấy lòng ngay thẳng mà trả lời các câu hỏi của Như Lai. Chư Phật trong mười phương đều chỉ do một con đường để thoát li sinh tử: đó là tâm ngay thẳng. Tâm ngay thẳng thì lời nói ngay thẳng, và cứ như thế mà tiến lên từ địa vị đầu tiên cho đến địa vị cuối cùng, ở chặng giữa không bao giờ có tướng quanh co.

Này A Nan! Bây giờ Như Lai hỏi thầy: Cái lúc thầy thấy ba mươi hai tướng của Như Laiphát tâm xuất gia, thì thầy dùng cái gì để thấy, và cái gì ưa thích?

Đại đức A Nan bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Con đã dùng cái tâm và con mắt của con mà ưa thích; do con mắt xem thấy thân tướng thắng diệu của Thế Tôn mà tâm sinh ưa thích, cho nên con đã phát tâm, nguyện xa lìa dòng sinh tử.

Phật dạy đại đức A Nan:

– Như lời thầy vừa nói, sự ưa thích chính thật do tâm và con mắt. Vậy, giả sử không biết tâm và con mắt ở đâu thì không thể dẹp được trần lao(20). Ví như có vị quốc vương bị giặc xâm lăng, phát binh đánh giẹp, thì quân binh ấy cần phải biết giặc ở chỗ nào. Sở dĩ thầy bị lưu chuyển là do lỗi ở tâm và mắt của thầy. Bây giờ Như Lai hỏi thầy: Tâm và mắt của thầy hiện ở chỗ nào?

Đại đức A Nan bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Tất cả mười loài chúng sinh(21) ở trong thế gian đều biết cái tâm là ở bên trong thân thể. Giả sử con nhìn con mắt đẹp như hoa sen xanh của đức Thế Tôn, mắt ấy ở trên mặt đức Thế Tôn; cũng vậy, con mắt thịt của con thì ở trên mặt con. Như thế, cái tâm hiểu biết vốn thật ở trong thân.

Phật hỏi đại đức A Nan:

Hiện giờ thầy đang ngồi trong giảng đường của Như Lai, thầy hãy xem khu rừng Kì-đà(22) nằm tại đâu?

– Bạch đức Thế Tôn! Ngôi giảng đường cao lớn thanh tịnh này tọa lạc trong vườn Cấp-cô-độc(23), còn rừng Kì-đà hiện thật ở bên ngoài giảng đường.

– A Nan! Ngay ở trong giảng đường này, thầy thấy cái gì trước?

– Bạch đức Thế Tôn! Ở trong giảng đường này, trước tiên con thấy đức Thế Tôn; thứ đến con thấy đại chúng; rồi sau đó nhìn ra ngoài mới thấy vườn rừng.

– Này A Nan! Do cái gì mà thầy thấy được vườn rừng?

– Bạch đức Thế Tôn! Vì các cửa của giảng đường này đều mở rộng, cho nên từ trong giảng đường con thấy được suốt ra ngoài xa.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, đưa cánh tay sắc vàng kim, rờ đầu đại đức A Nan, dạy rằng:

– Có pháp tam-ma-đề(24) tên là “Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Vương”, gồm đủ muôn hạnh; các đức Như Lai trong mười phương đều lấy pháp môn này làm con đường trang nghiêm vi diệu để vượt thoát sinh tử. Thầy hãy lắng nghe!

Đại đức A Nan liền đảnh lễ, xin nghe lời chỉ dạy từ ái của Phật.

Phật hỏi đại đức A Nan:

– Như thầy vừa nói, thân thầy ở trong giảng đường, do các cửa mở rộng mà thầy thấy được cảnh vườn rừng ở bên ngoài; vậy, liệu có người nào ở trong giảng đường này, không thấy Như Lai mà thấy cảnh trí bên ngoài giảng đường chăng?

Đại đức A Nan thưa:

– Bạch đức Thế Tôn! Ở trong giảng đường không thấy đức Thế Tôn mà lại thấy cảnh trí ở bên ngoài, chuyện đó không thể có được!

– A Nan! Thầy cũng như vậy. Cái tâm sáng tỏ của thầy rõ biết tất cả, nếu hiện giờ cái tâm sáng tỏ ấy quả thật ở trong thân thầy, thì trước hết nó phải biết rõ trong thân; nhưng có người nào trước thấy trong thân rồi sau mới thấy cảnh vật ở ngoài không? Dù không thể thấy được tim, gan, lá lách, bao tử, thì móng tay mọc ra, tóc dài thêm, gân chuyển động, mạch máu nhảy, lẽ ra phải biết rõ, chứ tại sao lại không biết? Mà đã không biết được bên trong, sao lại biết được bên ngoài? Vì vậy mà biết rằng, thầy nói cái tâm hay biết hiện ở trong thân, điều đó không phải lẽ.

Đại đức A Nan cúi đầu bạch Phật:

– Con nghe lời đức Thế Tôn dạy như vậy, mới hiểu ra rằng, cái tâm của con thật ở ngoài thân; vì sao? Ví như ngọn đèn được thắp lên ở trong nhà, thì tất nhiên ngọn đèn ấy trước tiên chiếu sáng ở trong nhà, rồi do từ các cửa mà ánh sáng chiếu ra ngoài sân. Tất cả chúng sinh đều không thấy bên trong thân mà chỉ thấy bên ngoài thân, cũng giống như ngọn đèn để ở ngoài nhà thì không thể chiếu sáng bên trong nhà. Nghĩa ấy thật rõ ràng, chắc không sai lầm, không biết có đúng với nghĩa lí rốt ráo của đức Thế Tôn hay không?

Phật bảo đại đức A Nan:

– Các thầy tì kheo đây vừa theo Như Lai khất thực trong thành Thất-la-phiệt, bây giờ đã trở về rừng Kì-đà. Như Lai đã thọ trai rồi. Thầy hãy xem trong chúng tì kheo này, khi một thầy ăn thì các thầy khác có no được không?

Đại đức A Nan thưa:

– Bạch đức Thế Tôn! Không thể được! Vì sao? Quí vị tì kheo này tuy đều là A-la-hán, nhưng thân xác khác nhau, thì đâu có lí nào một vị ăn mà khiến cho các vị khác được no?

Phật bảo đại đức A Nan:

– Nếu cái tâm thấy biết rõ ràng của Thầy thật ở ngoài thân, thì thân và tâm cách lìa nhau, không liên canvới nhau; vậy, cái gì tâm biết thì thân không thể biết, cái gì thân biết thì tâm không thể biết. Bây giờ Như Lai đưa cánh tay cho thầy xem. Khi con mắt của thầy thấy thì tâm của thầy có phân biệt để biết rõ đó là cánh tay của Như Lai không?

Đại đức A Nan thưa:

Bạch đức Thế Tôn, quả thật có như vậy!

Phật bảo đại đức A Nan:

– Nếu thân và tâm cùng thấy biết với nhau một lúc, thì đâu có bảo được là tâm ở ngoài thân! Vậy nên biết, cái tâm hay biết nằm ở ngoài thân, như lời thầy vừa nói, là không đúng.

Đại đức A Nan thưa:

– Bạch đức Thế Tôn! Như lời Thế Tôn dạy, tâm không thấy bên trong, nên không ở trong thân; thân và tâm cùng hay biết một lần, không thể rời nhau, nên tâm không ở ngoài thân. Bây giờ con suy nghĩ thì biết rằng tâm ở tại một chỗ.

Phật hỏi:

– Chỗ ấy là chỗ nào?

Đại đức A Nan thưa:

– Cái tâm hiểu biết đã không biết bên trong mà lại có thể thấy bên ngoài, thì theo con nghĩ, nó nằm núp sau con mắt! Ví như có người lấy chén lưu li úp lên hai con mắt, tuy có vật úp lên nhưng con mắt không bị ngăn ngại, vừa thấy là liền phân biệt biết ngay. Cái tâm hiểu biết tỏ rõ của con không thấy biết được bên trong là vì nó ở nơi con mắt; nhưng nó lại thấy biết rõ ràng cảnh sắc ở bên ngoài, không chướng ngại, là vì nó núp sau con mắt.

Phật bảo đại đức A Nan:

– Như lời thầy vừa nói, tâm núp sau con mắt như con mắt ở sau chén lưu li, vậy khi người kia lấy chén lưu li úp lên hai con mắt, trông thấy núi sông, thì có trông thấy chén lưu li không?

Bạch đức Thế Tôn, đúng vậy! Khi người kia dùng chén lưu li úp lên hai con mắt, quả thật có thấy cái chén lưu li.

Phật bảo đại đức A Nan:

– Nếu tâm của thầy núp sau con mắt giống như con mắt núp sau chén lưu li, thì khi trông thấy núi sông, tại sao không trông thấy con mắt? Nếu tâm thấy con mắt, thì con mắt đồng như ngoại cảnh, không thể mắt thấy mà tâm biết theo được. Nếu không thấy được con mắt thì sao lại nói rằng cái tâm rõ biết ấy núp sau con mắt –như con mắt núp sau chén lưu li? Vậy nên biết rằng, cái tâm rõ biết núp sau con mắt, giống như con mắt núp sau chén lưu li, như lời thầy vừa nói, là không phải lí.

Đại đức A Nan bạch Phật:

– Thưa đức Thế Tôn! Bây giờ con lại suy nghĩ như vầy: Cái thân của chúng sinh đây, phủ tạng(25) ở trong, khiếu huyệt(26) ở ngoài, có tạng thì tối, có khiếu thì sáng. Con xin thưa lên đức Thế Tôn: Mở mắt thấy sáng gọi là thấy bên ngoài, nhắm mắt thấy tối gọi là thấy bên trong; ý nghĩa ấy như thế nào?

Phật hỏi đại đức A Nan:

– Khi thầy nhắm mắt thấy tối, cái cảnh giới tối ấy là đối với con mắt, hay không đối với con mắt? Nếu đối với con mắt thì cảnh giới tối ấy ở trước con mắt, vậy tại sao lại nói là ở trong thân? Nếu cảnh giới tối ấy quả thật ở trong thân, thì khi ở trong nhà tối, không có ánh sáng mặt trời mặt trăng, không có cả ánh sáng đèn, thì tất cả những gì trong cảnh giới tối của căn nhà đó đều là phủ tạng của thầy phải không? Nếu như cái cảnh giới tối ấy không đối trước con mắt thì đâu có thể gọi được là thấy! Giả sử, thay vì thấy ra ngoài, bây giờ cho là thấy ngược được vào trong, thì khi nhắm mắt thấy cảnh giới tối gọi là thấy bên trong thân, thế tại sao khi mở mắt sáng lại không thấy được mặt mình? Nếu không thấy được mặt mình thì không thể nói là thấy ngược vào trong; còn như thấy được mặt mình, thì cả cái tâm rõ biết và con mắt đều ở nơi hư không, chứ đâu phải ở trong thân! Nếu cả tâm và mắt đều ở nơi hư không thì tất nhiên chúng không phải là thân thể của thầy; cũng giống như hiện giờ Như Lai thấy mặt thầy, Như Lai đâu phải là thân thể của thầy? Và như thế, nếu con mắt của thầy đã biết thì đáng lí cái thân của thầy phải không biết; chứ nếu như thầy chấp cho rằng, thân và mắt, cả hai đều biết, tức là có hai cái biết, thế thì chỉ một cái thân của thầy mà sẽ thành hai đức Phật hay sao? Vậy nên biết rằng, thầy nói thấy tối là thấy bên trong thân, điều đó không đúng.

Đại đức A Nan bạch Phật:

– Con thường nghe đức Thế Tôn chỉ dạy bốn chúng: Do tâm sinh cho nên vạn pháp sinh; do vạn pháp sinh cho nên các thứ tâm sinh khởi. Bây giờ con suy nghĩ, tức cái thể suy nghĩ ấy chính thậttâm tánh của con chăng? Hễ suy nghĩ hợp ở chỗ nào thì tâm liền có ở chỗ đó, chứ không phải ở trong, không phải ở ngoài, cũng không phải ở khoảng giữa.

Phật bảo đại đức A Nan:

– Thầy vừa nói, do các pháp sinh cho nên các thứ tâm sinh, hễ suy nghĩ hợp ở chỗ nào thì tâm liền có ở chỗ đó. Nhưng tâm này không có tự thể thì không thể hợp được; nếu không có tự thể mà có thể hợp được, thì hóa ra giới thứ 19 cùng trần thứ 7(27) có thể hợp được hay sao? Điều đó hoàn toàn vô lí! Nếu có tự thể, thì bây giờ thầy dùng tay véo thân thầy, cái tâm biết véo của thầy ở trong thân ra, hay từ bên ngoài vào? Nếu ở trong thân ra thì nó phải thấy trong thân; nếu từ bên ngoài vào thì nó phải thấy cái mặt.

Đại đức A Nan bạch Phật:

– Thấy là con mắt thấy, cái tâm rõ biết thì không phải là con mắt, cho nên nói tâm thấy là không hợp lí.

Đức Phật dạy:

– Nếu con mắt có thể thấy, thì khi thầy ở trong nhà, cái cửa có thấy được không? Lại nữa, những người đã chết mà con mắt vẫn còn, lẽ ra phải thấy cảnh vật; mà nếu thấy được cảnh vật thì sao gọi là đã chết? Lại nữa, này A Nan! Cái tâm rõ biết của thầy, nếu chắc chắn có tự thể, thì có một thể hay có nhiều thể? Hiện giờ nó ở trong thân thầy, thì cái thể ấy là cùng khắp cả thân hay không cùng khắp? Nếu tâm chỉ có một thể, khi thầy véo vào một cánh tay thì cả hai tay hai chân đều phải biết; mà nếu cả hai tay hai chân đều biết thì lại không biết véo ở chỗ nào, nếu biết chỗ véo thì cái thuyết “một thể” của thầy, tự nó không thành lập được! Nếu tâm có nhiều thể thì thành ra có nhiều người, vậy thể nào là thầy? Nếu cái thể của tâm ở cùng khắp cả thân thì giống như cái véo trong trường hợp luận về thuyết “một thể” lúc nãy; nếu như không cùng khắp, thì khi thầy đụng cái đầu, đồng thời cũng đụng cái chân, lẽ ra hễ đầu biết thì chân không biết, nhưng sự thật thì không phải như vậy. Vì vậy mà biết rằng, suy nghĩ hợp ở chỗ nào thì tâm liền có ở chỗ ấy, như lời thầy nói, là điều không hợp lí!

Đại đức A Nan bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Con cũng từng được nghe, khi nói về “thật tướng” cho ngài Văn Thù cùng quí vị Pháp vương tử(28), đức Thế Tôn có dạy rằng: “Tâm không ở trong, cũng không ở ngoài”. Theo con suy nghĩ, vì không biết bên trong thân, nên tâm không phải ở trong thân; tâm và thân cùng biết, nên tâm không phải ở bên ngoài thân. Tâm và thân cùng biết, mà lại không biết ở bên trong, như thế thì tâm phải ở khoảng giữa.

Đức Phật dạy:

– Thầy vừa nói rằng, cái tâm ở khoảng giữa; ở giữa thì chắc chắn là không lẫn lộn, và cũng không phải là không có chỗ nhất định. Vậy thầy nói “khoảng giữa”, thì cái khoảng giữa ấy ở tại đâu? Ở ngoại cảnh hay ở nơi thân? Nếu cái khoảng giữa ấy ở nơi thân, mà ở một bên(29) thì không phải giữa, – mà ở giữa thì đồng như ở trong; nếu ở ngoại cảnh thì có thể nêu lên được hay không thể nêu lên được? Không thể nêu lên thì đồng như không có, còn nêu lên được thì cũng không thể có cái khoảng giữa nhất định. Vì sao? Ví như có người dùng một vật gì đó để ở một chỗ, và gọi đó là ở giữa, nếu đứng ở phía Đông mà nhìn thì vật ấy thành ra ở phía Tây, nếu đứng ở phía Nam mà nhìn thì vật ấy thành ra ở phía Bắc; cái vật “ở giữa” ấy, phương hướng đã lộn xộn thì cái tâm cũng rối bù, bất định.

Đại đức A Nan bạch Phật:

– Cái “khoảng giữa” mà con nói, không phải là hai thứ thân và cảnh này. Như đức Thế Tôn từng dạy, nhãn căn duyên nơi sắc cảnh mà sinh ra nhãn thức. Nhãn cănphân biệt, sắc cảnh không hiểu biết, thức phát sinh ở giữa căn và cảnh, thì tâm ở tại đó.

Đức Phật dạy:

– Cái tâm của thầy nếu ở giữa căn và cảnh thì cái thể của tâm ấy bao gồm cả hai bên, hay không bao gồm cả hai bên? Nếu bao gồm cả hai bên thì căn và cảnh xen lộn; cảnh thì vô tri, căn thì có phân biệt, tất nhiên trở thành hai cái đối lập nhau; sao gọi được là tâm “ở giữa”? Thế thì cái tâm không thể bao gồm cả hai bên được! Cái tâm đã không bao gồm cả hai bên thì nó không giống cái biết của căn, cũng không giống cái không biết của cảnh, tức là không có thể tánh; vậy cái khoảng giữa ấy lấy gì làm tướng? Cho nên biết rằng, thầy nói cái tâm ở khoảng giữa là không đúng lí.

Đại đức A Nan bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Trước đây con có nghe đức Thế Tôn cùng với bốn vị đại đệ tử(30) Đại Mục Kiền Liên(31), Tu Bồ Đề (32), Phú Lâu Na(33), và Xá Lợi Phất(34), khi giảng pháp từng nói rằng, cái tâm hiểu biết phân biệt cũng không ở trong, cũng không ở ngoài, cũng không ở khoảng giữa, không ở chỗ nào cả, không dính bám vào đâu cả, gọi đó là tâm. Vậy, con không dính bám vào đâu cả thì có gọi là tâm không?

Phật dạy đại đức A Nan:

– Thầy nói rằng, cái tâm hiểu biết phân biệt không ở chỗ nào cả, vậy thì những hiện tượng trong thế gian như hư không và các loài đi trên mặt đất, bơi lội dưới nước, bay trên không trung, tức là tất cả sự vật mà thầy không dính bám vào, là có hay không có? Nếu không có thì đồng với lông rùa sừng thỏ(35), có gì đâu mà nói là không dính bám? Nếu có nhưng thầy không dính bám vào, thì cũng không thể nói được là không. Không có tướng thì mới gọi là không; không phải không thì tức là có tướng. Có tướng thì nhất định phải có chỗ nơi, đâu có thể nói là không dính bám được! Cho nên biết rằng, cái không dính bám vào đâu cả, gọi đó là tâm hiểu biết, như lời thầy vừa nói, là điều không hợp lí.

Bấy giờ đại đức A Nan, ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo vai bên phải, đầu gối bên phải quì xuống đất, chắp tay cung kính bạch Phật rằng:

– Con là đứa em nhỏ nhất của Thế Tôn, nhờ Thế Tôn thương yêu, nay tuy được xuất gia, nhưng vẫn còn ỷ lại vào tình thương của Thế Tôn; cho nên, dù nghe nhiều biết rộng mà chưa đạt đến quả vô lậu, không đủ khả năng chế phục tà chú “Ta Tì La”, đến nỗi bị nó dắt dẫn đưa vào nhà dâm nữ. Nguyên do chính vì con không biết chân tâm ở tại đâu, cúi xin Thế Tôn từ bi thương xót, chỉ dạy cho chúng con con đường tu xa-ma-tha, khiến cho những kẻ mất thiện căn trừ bỏ ác kiến.

Đại đức A Nan bạch Phật xong, năm vóc gieo xuống đất(36), cùng với đại chúng, chí thành khao khát được nghe lời Phật dạy.

Lúc đó đức Thế Tôn, từ nơi mặt phóng ra muôn đạo hào quang, sáng chói rực rỡ như trăm ngàn mặt trời, khắp các thế giới của chư Phật đều chấn động sáu cách(37), các cõi nước trong mười phương nhiều như vi trần cùng lúc đều hiện rõ. Do oai thần của Phật, tất cả các thế giới đều hợp lại thành một thế giới. Trong thế giới đó, tất cả các vị Bồ-tát lớn đều an trụ ở cõi nước của mình, chắp tay chờ nghe Phật dạy.

Phật bảo đại đức A Nan:

– Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, quá nhiều điên đảo(38), hạt giống nghiệp tự nhiên chiêu cảm quả khổ, giống như chùm trái ác-xoa(39). Những người tu hành không thể chứng đạo Vô Thượng Bồ Đề, cùng lắm là thành Thanh-văn, Duyên-giác, hay chư thiên; hoặc tệ đến nỗi sa vào hàng ngoại đạo, hay làm ma vươngbà con họ hàng của ma. Như thế là bởi vì không biết được hai thứ gốc rễ, tu tập sai lầm, giống như nấu cát mà muốn trở thành cơm, thì dù trải qua số kiếp nhiều như vi trần, cũng không thể nào thành được. Hai thứ gốc rễ là gì? Này A Nan, một là cái gốc rễ sinh tử từ vô thỉ, tức như hiện nay thầy và mọi chúng sinh đều dùng cái tâm phan duyên(40) mà làm tự tánh. Hai là cái thể tánh thanh tịnh của bồ đề niết bàn vốn có từ vô thỉ, tức như thầy hiện nay, cái chân tâm sáng suốt mầu nhiệm của thầy sinh hiện ra tất cả các pháp, nhưng thầy chỉ duyên được cái bóng dáng còn rơi rớt lại của chúng mà thôi. Do vì chúng sinh quên mất cái tánh sáng suốt vốn có ấy, nên tuy suốt ngày sử dụng nó mà không tự biết, để phải rơi vào các nẻo luân hồi một cách oan uổng. Này A Nan! Nay thầy muốn biết con đường tu xa-ma-tha, nguyện thoát khỏi vòng sinh tử, bây giờ Như Lai lại hỏi thầy...

Tức thì đức Phật đưa cánh tay sắc vàng lên, co năm ngón tay lại, hỏi đại đức A Nan:

– Thầy có thấy không?

Đại đức A Nan thưa:

– Bạch Thế Tôn, con có thấy.

Phật hỏi tiếp:

– Thầy thấy cái gì?

Đại đức A Nan thưa:

– Con thấy đức Thế Tôn đưa cánh tay lên và co năm ngón lại thành cái nắm tay sáng rực, chói cả tâm và mắt con.

Phật hỏi:

– Thầy dùng cái gì để thấy?

Đại đức A Nan thưa:

– Con và đại chúng đều dùng mắt để thấy.

Phật bảo đại đức A Nan:

– Khi nãy thầy nói rằng, Như Lai đưa cánh tay lên và co năm ngón lại thành cái nắm tay sáng rực, chói cả tâm và mắt thầy; bây giờ thầy hãy trả lời câu hỏi của Như Lai: Con mắt thầy có thể thấy, nhưng thầy lấy cái gì làm tâm để nhận biết cái nắm tay chói sáng của Như Lai?

Đại đức A Nan thưa:

Đức Thế Tôn hiện giờ gạn hỏi cái tâm ở chỗ nào, mà con thì dùng tâm để suy nghĩ xét tìm; vậy con lấy cái có khả năng suy nghĩ đó làm tâm.

Đức Phật quở:

– Sai rồi! A Nan, cái suy nghĩ đó không phải là tâm của thầy!

Đại đức A Nan giật mình kinh sợ, vội vàng đứng dậy chắp tay bạch Phật:

– Nếu đó không phải là cái tâm của con, thì gọi là cái gì?

Phật bảo đại đức A Nan:

– Đó chỉ là những tưởng tượng tạo nên do những hình tướng hư vọng của trần cảnh trước mặt, chúng mê hoặc cái chân tánh của thầy. Do từ vô thỉ đến nay, thầy cứ nhận giặc làm con, bỏ mất cái tính bản lai thường trụ của mình, nên phải chịu lưu chuyển trong vòng sinh tử.

Đại đức A Nan bạch Phật:

– Bạch đức Thế Tôn! Con là đứa em yêu của Thế Tôn, do tâm kính yêu Thế Tôn mà con xuất gia. Nhưng tâm con đâu phải chỉ riêng cúng dường đức Thế Tôn, mà còn cúng dường phụng sự chư Phật và các thiện tri thức trải khắp hằng sa quốc độ. Con phát lòng đại dũng mãnh, làm các pháp sự khó làm, là đều dùng cái tâm này; mà giả sử có hủy báng chánh pháp, mất hết thiện căn, cũng là do bởi cái tâm này. Nay đức Thế Tôn bảo đó không phải là tâm, thì tức là con không có tâm, đồng với gỗ đá chăng? Vì rời cái tâm hiểu biết ấy ra thì con không còn cái gì khác nữa, tại sao đức Thế Tôn bảo đó không phải là tâm? Con thật kinh sợ, mà cả đại chúng đây cũng đều nghi hoặc. Cúi xin đức Thế Tôn rủ lòng đại bi, chỉ dạy cho những kẻ chưa giác ngộ.

Bấy giờ đức Phật khai thị cho đại đức A Nanđại chúng, muốn cho tâm mọi người được thể nhập vô sinh pháp nhẫn(41), từ nơi tòa sư tử(42), Ngài xoa đầu đại đức A Nan, dạy rằng:

Như Lai thường nói, các pháp sinh khởi là do tâm biến hiện. Tất cả nhân quả, thế giới, vi trần, đều nhân nơi tâm mà có thể tánh. Này A Nan! Tất cả sự vật hiện có trong các thế giới, dù nhỏ mọn như ngọn cỏ, lá cây, sợi dây, thắt nút, nếu gạn xét tận nguồn gốc thì đều có thể tánh; dẫu đến như hư không cũng còn có tên cùng tướng mạo, huống chi là cái tâm thanh tịnh, sáng suốt, nhiệm mầu, làm thể tánh cho tất cả sự vật, mà tự mình lại không có thể tánh hay sao? Nhưng, nếu thầy cố chấp hẹp hòi, cho cái tính suy xét phân biệt hiểu biết là tâm, thì cái tâm ấy phải có thể tánh hoàn toàn biệt lập, không dính dáng gì tới thể tánh của sáu trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Còn như hiện giờ đây, thầy đang nghe Như Lai nói pháp, đó là do nơi âm thanh mà có phân biệt; cho dầu diệt hết tất cả thấy nghe hiểu biết đối với năm trần cảnh bên ngoài(43), bên trong chỉ giữ lấy cái cảnh giới tịch tĩnh của ý thức, thì cái cảnh giới tịch tĩnh ấy cũng vẫn là pháp trần(44), tức sự phân biệt bóng dáng của năm trần cảnh. Chẳng phải Như Lai bảo thầy phủ nhận cái tính phân biệt hiểu biết không phải là tâm, nhưng chính nơi cái tâm của thầy, thầy phải suy xét cho chín chắn, nếu rời trần cảnh trước mắtvẫn có sự phân biệt hiểu biết, thì đó mới chân thật là cái tâm của thầy! Nếu cái tánh biết, khi rời trần cảnh liền không còn tự thể, thì nó chỉ là sự phân biệt bóng dáng của trần cảnh mà thôi. Trần cảnh không thường còn, khi chúng biến đổi tiêu diệt thì cái tâm phân biệt trần cảnh ấy cũng không còn, đồng như lông rùa sừng thỏ; đến lúc đó thì pháp thân của thầy cũng thành ra đoạn diệt, còn có gì để tu chứng vô sinh pháp nhẫn?

Tức thì đại đức A Nan cùng cả đại chúng đều ngơ ngác, lặng im, không biết phải nói năng gì! Đức Phật bảo đại đức A Nan:

– Tất cả những người tu học trong thế gian, hiện tại tuy đạt được chín bậc định theo thứ lớp(45), nhưng vẫn không diệt sạch tận cùng phiền não, chỉ chứng quả A-la-hán, đều do cố chấp những vọng tưởng sinh tử này, lầm lạc cho đó là chân thật. Và cũng vì thế mà cho đến hôm nay, thầy tuy là người học rộng nghe nhiều, mà vẫn chưa thành tựu quả thánh.

Đại đức A Nan nghe Phật dạy như thế, lại buồn rầu rơi lệ, đảnh lễ Phật, rồi quì gối chắp tay, bạch Phật rằng:

– Từ khi phát tâm theo đức Thế Tôn xuất gia, con vì ỷ lại nơi oai thần của Thế Tôn mà thường tự nhủ mình, không cần phải tu hành khó nhọc, rồi đây đức Thế Tôn sẽ ban cho pháp chánh định. Con không biết rằng, thân tâm vốn không thể thay thế nhau, cho nên đã đánh mất bản tâm của mình. Vì vậy, con tuy thân thì xuất gia, mà tâm thì không thâm nhập chánh đạo; ví như đứa con cùng khổ đã bỏ cha mà chạy trốn. Hôm nay con mới biết, tuy có học rộng nghe nhiều mà không tu hành, thì có khác gì kẻ không nghe không học! Ví như người cứ nói ăn mà không ăn, thì chẳng bao giờ no được. Bạch đức Thế Tôn! Chúng con ngày hôm nay còn bị hai thứ chướng ngại(46) ràng buộc, do đó mà không nhận biết được cái tâm tánh tĩnh lặng thường trú; cúi xin đức Thế Tôn thương xót kẻ nghèo cùng rách rưới, phát khởi tâm sáng suốt nhiệm mầu, khai mở đạo nhãn cho chúng con!

Liền khi đó, đức Thế Tôn, từ nơi tướng cát tường ở trước ngực, phóng ra hào quang báu, ánh sáng rực rỡ, có trăm ngàn màu sắc, cùng lúc chiếu soi khắp thế giới chư Phật mười phương, soi sáng từ trên chư Phật ở hằng sa cõi nước, xuống đến đại đức A Nan và cả đại chúng. Đức Thế Tôn bảo đại đức A Nan rằng:

– Nay Như Lai vì thầy mà dựng cây cờ chánh pháp lớn, cũng khiến cho chúng sinh khắp mười phương đạt được cái tánh sâu kín nhiệm mầu, cái tâm trong sạch sáng suốt, và đạo nhãn thanh tịnh. Này A Nan! Trước hết thầy hãy trả lời câu hỏi của Như Lai: Lúc nãy thầy nói thầy thấy cái nắm tay chói sáng của Như Lai, vậy, ánh sáng của cái nắm tay do đâu mà có? Làm sao mà thành ra cái nắm tay? Và thầy lấy cái gì để thấy?

Đại đức A Nan thưa:

– Bạch đức Thế Tôn! Toàn thân Phật như vàng diêm-phù-đàn(47), sáng ngời như núi báu, hoàn toàn thanh tịnh, đã sinh ra ánh sáng ấy; quả thật con đã dùng con mắt để nhìn, thấy đức Thế Tôn co nắm năm ngón tay lại, đưa lên cho đại chúng xem, do đó mà có cái nắm tay.

Phật bảo đại đức A Nan:

– Hôm nay Như Lai sẽ đem sự thật trước mắt để nói cho thầy rõ. Những người có trí, chỉ cần dùng thí dụ là được khai ngộ. Này A Nan! Ví như cái nắm tay của Như Lai đây, nếu không có bàn tay của Như Lai thì cái nắm tay ấy không thành; nếu không có con mắt của thầy thì cái thấy của thầy không thành. Vậy thì, lấy nhãn căn của thầy mà so sánh với cái nắm tay của Như Lai, nghĩa lí của hai sự việc đó có giống nhau không?

Đại đức A Nan bạch Phật:

Bạch đức Thế Tôn, đúng như vậy! Đã không có con mắt của con thì cái thấy của con không thành; cho nên đem cái thấy của con mà so với cái nắm tay của Thế Tôn, cả sự việc và nghĩa lí đều giống nhau.

Phật bảo đại đức A Nan:

– Thầy nói giống nhau, nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Nếu người không có bàn tay, thì tuyệt nhiên không bao giờ có nắm tay; nhưng người không có con mắt thì cái thấy không phải hoàn toàn là không có! Vì sao vậy? Thầy thử ra đường hỏi một người mù rằng: “Ông thấy cái gì không”, chắc chắn người mù kia sẽ trả lời thầy rằng: “Hiện trước mắt tôi chỉ thấy tối đen, không có gì khác!” Lấy đó mà suy xét thì trần cảnhtrước mắt tự chúng tối đen, chứ cái tính thấy có hao tổn gì đâu?

Đại đức A Nan bạch Phật:

Trước mắt những người mù chỉ thấy tối đen, đâu có thể gọi được là thấy?

Phật lại hỏi đại đức A Nan:

– Những người mù không có mắt chỉ thấy tối đen, và những người có mắt ở trong nhà tối, thì hai cái tối ấy khác nhau hay không khác nhau?

– Thật vậy, thưa đức Thế Tôn! Người ở trong nhà tối này và những người mù kia, hai cái tối ấy so ra không có gì khác nhau.

– Này A Nan! Người mù hoàn toàn thấy tối đen, bỗng nhiên con mắt được sáng ra, trở lại thấy được mọi cảnh vật trước mắt, thì gọi là con mắt thấy; còn người ở trong nhà tối kia, trong khi đang hoàn toàn thấy tối đen, bỗng nhiên có đèn sáng, cũng thấy rõ được mọi cảnh vật trước mắt, trường hợp này, chẳng lẽ thầy cũng bảo là cái đèn thấy hay sao? Nếu quả thật cái đèn thấy được, thì tự nó không thể gọi là đèn; vả lại, giả sử cái đèn thấy được thì cũng đâu có liên quan gì tới thầy? Vì vậy mà biết rằng, cái đèn chỉ có công năng làm cho cảnh vật sáng tỏ, nhưng thấy là con mắt thấy, chứ không phải cái đèn; cũng vậy, con mắt chỉ làm cho cảnh vật hiển lộ, còn thấy là TÂM thấy, chứ không phải mắt!

Đại đức A Nan cùng với đại chúng được nghe lời Phật dạy như thế, tuy miệng im lặng nhưng tâm chưa khai ngộ, vẫn còn mong đức Phật từ bi chỉ dạy thêm, nên chắp tay, một lòng thanh tịnh, chờ Phật thương xót dạy bảo.

Bấy giờ đức Thế Tôn duỗi cánh tay mềm mại sáng ngời, mở năm ngón tay ra, bảo đại đức A Nan cùng đại chúng rằng:

Như Lai khi mới thành đạo, ở trong vườn Nai(48), từng dạy nhóm sa môn A Nhã Đa(49) gồm năm thầy tì kheo rằng: “Tất cả chúng sinh không chứng thành quả vị Bồ-đề cùng A-la-hán, đều do bị phiền não khách trần(50) mê hoặc.” Thuở đó quí thầy nhân đâu mà được khai ngộthành tựu quả thánh?

Bấy giờ tôn giả Kiều Trần Na(51) đứng dậy bạch Phật:

– Con hôm nay đã già cả, ở trong đại chúng riêng được cái tên là “Giải”, nhân ngộ được hai chữ “khách, trần” mà chứng quả. Bạch đức Thế Tôn! Ví như người hành khách vào nghỉ nơi quán trọ, hoặc ngủ, hoặc ăn; ngủ, ăn xong lại thu xếp hành trang lên đường, không ở yên được; chỉ có người chủ quán trọ mới không phải đi đâu. Từ ví dụ này mà con nghĩ rằng: Không ở yên thì gọi là “khách”; còn ở yên thì gọi là “chủ”. Và như vậy, con xin lấy sự “không ở yên” để nói lên ý nghĩa của chữ “khách”. Lại như khi trời quang tạnh, mặt trời sáng tỏ trên không trung, ánh sáng chiếu xuyên qua khe hở, làm hiện rõ những hạt bụi trong hư không; bụi bặm thì dao động, hư không thì lặng yên. Từ ví dụ này mà con nghĩ rằng: Lặng yên thì gọi là “không”; còn dao động thì gọi là “trần”. Và như vậy, con xin lấy sự “dao động” để nói lên ý nghĩa của chữ “trần”.

Đức Phật dạy:

– Đúng vậy!

Liền khi ấy, đức Thế Tôn ở trước đại chúng nắm năm ngón tay lại, nắm rồi mở, mở rồi lại nắm, rồi hỏi đại đức A Nan rằng:

– Bây giờ thầy thấy gì?

Đại đức A Nan thưa:

– Con thấy bàn tay quí báu của đức Thế Tôn lúc nắm lúc mở ở trước đại chúng.

Phật hỏi đại đức A Nan:

– Thầy thấy bàn tay của Như Lai nắm mở trước đại chúng, như vậy là bàn tay của Như Lai có nắm có mở, hay là cái thấy của thầy có nắm có mở?

Đại đức A Nan thưa:

– Bàn tay quí báu của đức Thế Tôn nắm mở trước đại chúng, con thấy chính bàn tay đức Thế Tôn khi nắm khi mở, chứ không phải cái thấy của con có nắm có mở.

Đức Phật hỏi:

– Cái gì động? Cái gì tĩnh?

Đại đức A Nan thưa:

– Bàn tay của đức Thế Tôn không đứng yên; chứ tính thấy của con, sự tĩnh còn không có, thì lấy gì mà gọi là động!

Phật dạy:

– Đúng vậy!

Bấy giờ đức Phật, từ trong bàn tay phóng ra một luồng ánh sáng, chiếu đến bên phải của đại đức A Nan, đại đức liền quay đầu ngó bên phải. Đức Phật lại phóng một luồng ánh sáng chiếu sang bên trái của đại đức A Nan, đại đức lại quay đầu ngó bên trái. Rồi đức Phật hỏi đại đức A Nan:

– Cái đầu của thầy vừa rồi nhân đâu mà cử động?

Đại đức A Nan thưa:

– Con thấy đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng quí báu, chiếu đến bên phải và bên trái con, cho nên con quay nhìn bên phải và bên trái, cái đầu con tự nó cử động.

– A Nan! Thầy nhìn ánh sáng của Như Lai mà cái đầu dao động, quay sang phải rồi quay sang trái, đó là cái đầu của thầy dao động, hay cái thấy dao động?

– Bạch đức Thế Tôn! Đó là cái đầu của con tự nó dao động; chứ tính thấy của con, sự dừng lại còn không có, huống gì là sự dao động.

Phật dạy:

– Đúng vậy.

Rồi đức Phật bảo khắp đại chúng:

– Nếu có chúng sinh lấy sự dao động mà gọi đó là trần, lấy sự không ở yên mà gọi đó là khách; thì quí thầy hãy xem thầy A Nan kia, đầu tự dao động mà tính thấy không dao động, cũng như quí thầy xem bàn tay Như Lai tự nắm tự mở, chứ tính thấy không duỗi không co. Vậy tại sao hiện giờ quí thầy vẫn lấy cái động làm thân, lấy cái động làm cảnh; mà chẳng biết rằng từ đầu đến cuối chỉ là niệm niệm sinh diệt! Quí thầy đã bỏ mất chân tánh, toàn làm việc điên đảo. Vì tâm tánh không chân thật cho nên quí thầy đã nhận vật làm mình, tự chuốc lấy sự trôi nổi xoay vần trong các nẻo luân hồi!

Ý kiến bạn đọc
17 Tháng Ba 201507:02
Khách
Kinh thua quy thay, quy co
Xin hoan hy goi cho con ban PDF.cua tron bo Kinh Lang Nghiem Tren web site con chi download duoc co tap 1 thoi. No se gup ich cho con tren con duong tu tap.Con xin cam on truoc.
Nam mo Bon Su Thich Ca Mau Ni Phat
Nguyen Hoang Chan (chansgv@gmail.com)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49759)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34636)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33453)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43933)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57086)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47571)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39421)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38485)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52949)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36604)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32243)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40484)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43496)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31469)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46717)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36213)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28711)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29248)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31895)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28840)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33371)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29142)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60988)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39783)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26688)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29677)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37394)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40099)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26852)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42667)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37289)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28295)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28899)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26401)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27176)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26197)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34680)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27816)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30482)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33297)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28572)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30082)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25494)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21851)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51320)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26738)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28630)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27715)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24363)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27465)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31947)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30187)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27705)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35463)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27451)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30022)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31782)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23031)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24185)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23030)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant