Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)

27 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 21927)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)


KINH A DI ĐÀ (văn vần)


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366

Nguyên tác Hán ngữ  [1]

Hán dịch: Diêu Tần Cưu Ma La Thập dịch

Bản dịch của HT Thích Khánh Anh

-o0o-


CHÁNH KINH


“Phật thuyết A Di Đà Kinh”
Cưu Ma La Thập dịch thành chữ Nho.
A Nan kết tập nên pho,
Rằng: Ta nghe Phật nói phô như vầy:
Như Lai Phật Tổ lúc này,
Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà;
Cách thành Xá Vệ không xa,
Là nơi Phật ở nói ra kinh này.
Tỳ Kheo đại chúng đông dầy,
Toàn là La Hán làm thầy, chúng quen…
Đều thành bực trưởng lão tăng,
Như là: Thân Tử, Mục Liên, Đầu Đà,
Ca Chiên Diên, Câu Si La,
Tinh Tú, Bàn Đặc, hay Bàn Đà Ca,
Nan Đà với A Nan Đà,
La Vân: Phúc Chướng, cùng là Ngưu Ty;
Ứng Cúng, Ca Lưu Đà Di
Kiếp Tân Na vốn thông tri tinh cầu;
Thiện Dung với A Nậu Lâu
Các đại đệ tử theo hầu đồng nghe.
Cả hàng Bồ Tát theo kề:
Văn Thù Sư Lợi con về Pháp Vương;
Di Lặc là họ đã tường,
A Dật Đa ấy tương đương danh đề;
Bất Hưu: Càn Đà Ha Đề,
Thường Tinh Tiến: mựa hề thối lui.
Thế, nhiều Bồ Tát các ngôi;
Chư Thiên, Phàm, Thánh, Trời, Người đồng nghe.
Bấy giờ Phật đối đương kỳ,
“Trưởng lão Xá Lợi Phất nề! Nghe đây:
Kể từ kham nhẫn cõi này,
Cách mười muôn ức cõi Tây Phương kìa.
Có cõi kia ở tận bên:
Nước là Cực Lạc, Phật tên Di Đà,
Hiện còn thuyết Pháp tại tòa.
Này, Xá Lợi Phất! Sao là Lạc Bang?
Nhân dân chẳng có khổ nàn,
Nên rằng Cực Lạc: hưởng toàn phước vui
Bảy hàng cây thẳng: ngang, xuôi
Lan can, lưới võng bảy đôi bao trùm;
Mỗi hàng, mỗi lớp quanh chung,
Toàn là bảy báu giáp cùng bốn bên.
Nước dùng Cực Lạc đặt tên,
Là: Công Đức nọ tạo nên vật này
Lại nữa, nước kia vui vầy:
Ao xây bảy báu, nước đầy tám công…;
Đáy ao bằng cát vàng ròng
Lộ bằng tứ bửu đi vòng tứ biên
Trong ao thường nở cửu liên
Hoa phô chín phẩm, ánh riêng bốn màu;
Màu nào tia nấy in nhau,
Như bánh xe lớn sạch làu thơm tho.
Nhà lầu, nhà gác nhỏ, to,
Trau giồi bảy báu, lô nhô mấy từng.
Trang nghiêm công đức bày chưng,
Nên rằng Cực Lạc danh xưng nước nhà,
Dưới, trên trong nước Di Đà:
Trời liên miên nhạc, đất la liệt vàng,
Ngày đêm gió cuốn hoa tàn,
Trời tuôn hoa mới cúng dàng Phật, Tăng
Quốc dân rạng sáng lấy khăn,
Đựng hoa đem cúng Thánh Hiền phương xa.
Cả mười muôn ức Phật Đà,
Liền như một bữa ăn đà về xơi;
Kinh hành xóc xáo thảnh thơi,
Nước vui là thế, chói ngời nên công…
Các chim tốt đủ sắc lông:
Chim thu, keo két, với công, hạc, và,
Cọng Mạng, Ca Lăng Tần Dà,
Ngày đêm hòa nhã kêu ca pháp này;
Năm căn, Năm lực kể bày,
Chánh Đạo tám Phẩm, Giác chi bảy phần
Nghe rồi ai cũng ân cần;
Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng tu hành.

Chớ rằng: chim bởi tội sanh!
Vì sao? Nước ấy không danh tam đồ
“Danh” đã không, “thật” có mô?
Nguyên do Phật hóa: khắp phô Pháp mầu!
Này ngươi! Cõi Phật cả bầu:
Gió rung cây báu, lưới châu rập rờn,
Hay như: đánh nhạc khảy đờn,
Trăm ngàn: món, nhịp, một cơn họa vần,
Nghe rồi khoan khoái tâm thần,
Niệm xưng Tam Bảo, hơn gần bát âm.
Vẻ vang công đức chi lâm,
Nên danh Cực Lạc nguyện thâm tổ thành.
Với Quốc danh, đã hiểu qua;
Này Xá Lợi Phất! Sao A Di Đà?
Hào quang của Phật phóng ra:
Dọc soi ba giới, ngang lòa mười phương;
Bởi vì sáng suốt không lường,
Cảnh không chướng ngại, danh tường A Di
Phật cùng dân chúng sống hoài,
Nên rằng “Vô Lượng Thọ” hay “… Di Đà”.
Ngài từ thành Phật lâu xa,
Đến nay mười kiếp, còn là vô biên,
Đệ tử ngài: hàng Thinh Văn,
Đều là La Hán, không ngằn số đông,
Dễ gì tính kể cho thông;
Bồ Tát cũng thế, quá đông hiện tiền.
Thế là “Bửu Bối: người hiền”,
Nên danh Cực Lạc là miền trang nghiêm
Chúng sanh niệm Phật cổ kim,
Đều sanh về đó, tiến thêm “chẳng lùi”;
Phần nhiều “một kiếp nữa thôi,
Bổ đi các xứ lên ngôi Phật Đà”;
Số này, Bồ Tát thậm đa,
Vô biên, vô lượng khó mà tính xong!
Các người nghe, nên bằng lòng,
Mau mau phát nguyện, lòng mong sanh về.
Là chi? Bởi được gần kề:
Các Ngài “Thượng Thiện” hội hè một nơi
Vì tu “niệm Phật” không rời,
Là “nhiều: phước đức tột vời thiện căn”
Dễ thường tu các nhơn duyên,
Là “ít: phước… thiện…” sanh lên đặng nào!
Vậy khuyên nam nữ đồng bào;
“Trì danh niệm Phật” dầu sao niệm hoài,
Một, hai, ba,… đến bảy ngày,
“Nhứt tâm bất loạn” niệm rày thành công,
Đến khi người ấy mạng chung
Di Đà, Thánh chúng rất đông hiện liền
Bởi câu “niệm Phật” rất thiêng
Nên người tỉnh táo chẳng điên đảo gì;
Thánh Hiền tiếp dẫn, tức thì
Sanh về nước Phật, liên trì hóa thân.
Này Ngươi ! Ta đã phân trần;
Thấy vì lợi ấy, lại phân lời này:
“Trì danh” là phép rất hay!
Ai tu cũng đặng, bảy ngày mà thôi;
Vậy thì ai nấy nghe rồi,
Ân cần “phát nguyện” lần hồi vãng sanh.
Quốc danh, Phật hiệu đã minh,
Nay ta xưng tụng phẩm bình công phu:
A Di Đà Phật khéo tu,
Lắm công nhiều đức khó trù tính toan,
Chẳng riêng ta khó nghĩ bàn;
Đến như chư Phật sáu phang như là:
Đông Phương: Bất Động Bụt Đà
Hay A Súc Bệ cũng là tên ghi
Tu Di Tướng, Đại Tu Di,
Tu Di Quang Phật và Ngài Diệu Âm,…
Bên Phương Nam: Nhật Nguyệt Đăng
Đèn từ sáng mãi như trăng, mặt trời;
Danh Văn: vẳng tiếng khắp nơi;
Đại Diện Kiên: trí sáng ngời, đảm đang;
Tu Di Đăng: trí sáng cao,
Vô Lượng Tinh Tiến: cần lao không lường…
Ở bên thế giới Tây Phương,
Có: Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Tướng và
Vô Lượng Tràng: thắng quân Ma
Đại Quang Phật, với Bù Đà Đại Minh;
Bửu Tướng Phật: tốt thân hình,
Tịnh Quang Phật: đức, trí thanh khác thường …
Bên Bắc Phương, có: Diệm Kiên,
Tối Thắng Âm: tiếng hơn tiên điểu cà
Nan Thư hay Nan Trở là:
Không chi phá hoại, như tòa Kim cang
Nhựt Sanh là: Ánh mọc sang,
Phật Ngài xuất hiện huy hoàng như kia;
Võng Minh: lưới sáng nhiều tia,
Trí Ngài lẫn suốt ví kìa Đế Châu
Phương Dưới sâu, có Phật là:
Sư Tử: uy mãnh, Thiên Ma kinh hồn!
Danh văn là: tiếng khắp đồn;
Danh Quang: tên tuổi rỡ cồn gần xa;
Cao sâu là pháp: Đạt ma;
Pháp Tràng, Trì Pháp, phép ra: phướng, gìn …
Cả trong thế giới Phương Trên
Phạm Âm: tiếng Phật, nghe, tin không lầm;
Tú Vương: Ánh Phật chiếu lâm,
Như sao Bắc Đẩu, trăng rằm trung thiên;
Phật tên Hương Thượng, kinh biên:
Thượng thừa năm phận… đàn chiên… Sáu Thù;
Hương Quang: trí Phật rất mầu,
Thơm tho tỷ thức, sáng làu nhãn căn
Đại Diệm Kiên: huệ đảm đang,
Lửa hừng đuốc trí, vai mang việc nhà;
Phật tên Tạp Sắc Bửu Hoa,
Nghiêm thân: muôn hạnh, chói lòa ba thân;
Ta La Thụ Vương chắc gân,
Như cây cao cả trên dân vững vàng
Bửu Hoa Đức Phật: vẻ vang
Kiến Nhất Thế Nghĩa: biết vàn muôn câu;
Như Tu Di Sơn: báu mầu
Đức Phật chót đầu, thể núi tột cao…
Cả sáu phương, Phật xiết bao;
Hằng hà sa số, phương nào cũng như:
Mỗi phương nhiều đức Phật từ,
Mỗi nước mỗi Phật hiện chừ hóa duyên;
Lưỡi từ bủa khắp đại thiên
Thốt lời thành thật mà “khuyên bảo” rằng:
“Chúng sanh người phải “tin” kinh,
Chư Phật hộ niệm ngợi khen khôn cùng!
À Thân Tử! Có biết không?
“Chư Phật hộ niệm kinh” dùng ý chi ?
Là: Như Nam tử, Nữ nhi,
Nghe tên: “kinh… Phật” thụ trì, xưng danh;
Thế là gái tín, trai lành,
Được “… Phật hộ niệm” tiến nhanh “… Bồ Đề”.
Thế nên Ngươi với chúng nề!
“Nghe” theo chư Phật, “tin” về lời ta.
Đối với nước Phật Di Đà,
Hoặc ai nguyện: trước, nay… và, nguyện sau:
Chúng kia tất cả với nhau,
Đều được “bất thối bực cao bồ đề”;
Thỉ, chung đều được sanh về,
Nguyện: trước sanh trước… sau về với sau.
Vậy “khuyên” Thiện, Tín mau mau:
Phát “mau” nguyện đó, sanh “mau” nước kìa.
Đối sáu phương, chư Phật kia,
Ta nay khen tặng A Di các Ngài:
Ngài nào cũng vẫn sống dai,
Lắm công, nhiều đức, khó suy khôn bàn!
Đối ta, Chư Phật khen, than,
Cũng công đức đó, mà ban lời này:
“Đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
Hay làm được việc cực kỳ gian nan!
Ta bà là cõi khốn nàn!
Kiếp đời tăng giảm, thời gian hoại thành
Nhân sanh kiến thức vô minh:
Đảo điên tà kiến, tạo thành trược ô;
Tham, sân phiền não hồ đồ:
Rủi ro tám nạn, vập vồ ba tai;
Chúng sanh động vật hình hài:
Thân mang máu mủ, tâm say vía hồn;
Trăm năm sanh mạng nan tồn:
Chết mang mễn nghiệp, sống dồn dập khiên!
Ở trong năm trược truân chuyên!
Ráng tu thành Phật, nên khen tặng Ngài
Đã đành “tu, chứng” khó thay!
Lại vì chúng ấy, nói ngay kinh này;
Khổ vì chúng khó nghe hoài,
Khuyên cho tín nguyện chẳng nài từ nan!”
Thế, lời Chư Phật khen ban;
Ngươi nay phải biết, ta đang vẫn làm:
Hi sinh với việc nan kham!
Vì: ngũ ác thế, đắc Tam Bồ Đề
Khổ: vì “tu, chứng” đã ghê!
Lại vì “thuyết pháp” ê chề! Người ơi!
Kinh này Phật thuyết đã rồi;
Các Ngài: Thân tử… Các ngôi: pháp thần…;
Tỳ kheo, Bồ Tát, thế nhân;
Trời: vua Đế thích, Quỉ Thần: Tu La…;
Chúng: nghe, tin, nguyện, truyền ra;
Hoan nghênh bái tạ Phật Đà rồi lui.

 

Ý kiến bạn đọc
30 Tháng Giêng 202014:21
Khách
Rất hay, tôi muốn nhận kinh này
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28949)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20679)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19413)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30482)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36415)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33201)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35539)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20967)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21910)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25252)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25784)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31236)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18552)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25133)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23759)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28924)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20852)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31444)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25542)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29717)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22511)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25706)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23268)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25731)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23717)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40596)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23346)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22441)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22083)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23499)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16955)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23281)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24303)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41089)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18974)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20472)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27720)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38112)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34059)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36783)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 23987)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29171)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60129)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27597)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68714)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24509)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24474)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22679)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26348)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26521)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20812)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20047)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27542)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46408)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53571)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23592)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21082)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25556)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29246)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 188887)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant