Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)

27 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 21929)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)


KINH A DI ĐÀ (văn vần)


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366

Nguyên tác Hán ngữ  [1]

Hán dịch: Diêu Tần Cưu Ma La Thập dịch

Bản dịch của HT Thích Khánh Anh

-o0o-


CHÁNH KINH


“Phật thuyết A Di Đà Kinh”
Cưu Ma La Thập dịch thành chữ Nho.
A Nan kết tập nên pho,
Rằng: Ta nghe Phật nói phô như vầy:
Như Lai Phật Tổ lúc này,
Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà;
Cách thành Xá Vệ không xa,
Là nơi Phật ở nói ra kinh này.
Tỳ Kheo đại chúng đông dầy,
Toàn là La Hán làm thầy, chúng quen…
Đều thành bực trưởng lão tăng,
Như là: Thân Tử, Mục Liên, Đầu Đà,
Ca Chiên Diên, Câu Si La,
Tinh Tú, Bàn Đặc, hay Bàn Đà Ca,
Nan Đà với A Nan Đà,
La Vân: Phúc Chướng, cùng là Ngưu Ty;
Ứng Cúng, Ca Lưu Đà Di
Kiếp Tân Na vốn thông tri tinh cầu;
Thiện Dung với A Nậu Lâu
Các đại đệ tử theo hầu đồng nghe.
Cả hàng Bồ Tát theo kề:
Văn Thù Sư Lợi con về Pháp Vương;
Di Lặc là họ đã tường,
A Dật Đa ấy tương đương danh đề;
Bất Hưu: Càn Đà Ha Đề,
Thường Tinh Tiến: mựa hề thối lui.
Thế, nhiều Bồ Tát các ngôi;
Chư Thiên, Phàm, Thánh, Trời, Người đồng nghe.
Bấy giờ Phật đối đương kỳ,
“Trưởng lão Xá Lợi Phất nề! Nghe đây:
Kể từ kham nhẫn cõi này,
Cách mười muôn ức cõi Tây Phương kìa.
Có cõi kia ở tận bên:
Nước là Cực Lạc, Phật tên Di Đà,
Hiện còn thuyết Pháp tại tòa.
Này, Xá Lợi Phất! Sao là Lạc Bang?
Nhân dân chẳng có khổ nàn,
Nên rằng Cực Lạc: hưởng toàn phước vui
Bảy hàng cây thẳng: ngang, xuôi
Lan can, lưới võng bảy đôi bao trùm;
Mỗi hàng, mỗi lớp quanh chung,
Toàn là bảy báu giáp cùng bốn bên.
Nước dùng Cực Lạc đặt tên,
Là: Công Đức nọ tạo nên vật này
Lại nữa, nước kia vui vầy:
Ao xây bảy báu, nước đầy tám công…;
Đáy ao bằng cát vàng ròng
Lộ bằng tứ bửu đi vòng tứ biên
Trong ao thường nở cửu liên
Hoa phô chín phẩm, ánh riêng bốn màu;
Màu nào tia nấy in nhau,
Như bánh xe lớn sạch làu thơm tho.
Nhà lầu, nhà gác nhỏ, to,
Trau giồi bảy báu, lô nhô mấy từng.
Trang nghiêm công đức bày chưng,
Nên rằng Cực Lạc danh xưng nước nhà,
Dưới, trên trong nước Di Đà:
Trời liên miên nhạc, đất la liệt vàng,
Ngày đêm gió cuốn hoa tàn,
Trời tuôn hoa mới cúng dàng Phật, Tăng
Quốc dân rạng sáng lấy khăn,
Đựng hoa đem cúng Thánh Hiền phương xa.
Cả mười muôn ức Phật Đà,
Liền như một bữa ăn đà về xơi;
Kinh hành xóc xáo thảnh thơi,
Nước vui là thế, chói ngời nên công…
Các chim tốt đủ sắc lông:
Chim thu, keo két, với công, hạc, và,
Cọng Mạng, Ca Lăng Tần Dà,
Ngày đêm hòa nhã kêu ca pháp này;
Năm căn, Năm lực kể bày,
Chánh Đạo tám Phẩm, Giác chi bảy phần
Nghe rồi ai cũng ân cần;
Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng tu hành.

Chớ rằng: chim bởi tội sanh!
Vì sao? Nước ấy không danh tam đồ
“Danh” đã không, “thật” có mô?
Nguyên do Phật hóa: khắp phô Pháp mầu!
Này ngươi! Cõi Phật cả bầu:
Gió rung cây báu, lưới châu rập rờn,
Hay như: đánh nhạc khảy đờn,
Trăm ngàn: món, nhịp, một cơn họa vần,
Nghe rồi khoan khoái tâm thần,
Niệm xưng Tam Bảo, hơn gần bát âm.
Vẻ vang công đức chi lâm,
Nên danh Cực Lạc nguyện thâm tổ thành.
Với Quốc danh, đã hiểu qua;
Này Xá Lợi Phất! Sao A Di Đà?
Hào quang của Phật phóng ra:
Dọc soi ba giới, ngang lòa mười phương;
Bởi vì sáng suốt không lường,
Cảnh không chướng ngại, danh tường A Di
Phật cùng dân chúng sống hoài,
Nên rằng “Vô Lượng Thọ” hay “… Di Đà”.
Ngài từ thành Phật lâu xa,
Đến nay mười kiếp, còn là vô biên,
Đệ tử ngài: hàng Thinh Văn,
Đều là La Hán, không ngằn số đông,
Dễ gì tính kể cho thông;
Bồ Tát cũng thế, quá đông hiện tiền.
Thế là “Bửu Bối: người hiền”,
Nên danh Cực Lạc là miền trang nghiêm
Chúng sanh niệm Phật cổ kim,
Đều sanh về đó, tiến thêm “chẳng lùi”;
Phần nhiều “một kiếp nữa thôi,
Bổ đi các xứ lên ngôi Phật Đà”;
Số này, Bồ Tát thậm đa,
Vô biên, vô lượng khó mà tính xong!
Các người nghe, nên bằng lòng,
Mau mau phát nguyện, lòng mong sanh về.
Là chi? Bởi được gần kề:
Các Ngài “Thượng Thiện” hội hè một nơi
Vì tu “niệm Phật” không rời,
Là “nhiều: phước đức tột vời thiện căn”
Dễ thường tu các nhơn duyên,
Là “ít: phước… thiện…” sanh lên đặng nào!
Vậy khuyên nam nữ đồng bào;
“Trì danh niệm Phật” dầu sao niệm hoài,
Một, hai, ba,… đến bảy ngày,
“Nhứt tâm bất loạn” niệm rày thành công,
Đến khi người ấy mạng chung
Di Đà, Thánh chúng rất đông hiện liền
Bởi câu “niệm Phật” rất thiêng
Nên người tỉnh táo chẳng điên đảo gì;
Thánh Hiền tiếp dẫn, tức thì
Sanh về nước Phật, liên trì hóa thân.
Này Ngươi ! Ta đã phân trần;
Thấy vì lợi ấy, lại phân lời này:
“Trì danh” là phép rất hay!
Ai tu cũng đặng, bảy ngày mà thôi;
Vậy thì ai nấy nghe rồi,
Ân cần “phát nguyện” lần hồi vãng sanh.
Quốc danh, Phật hiệu đã minh,
Nay ta xưng tụng phẩm bình công phu:
A Di Đà Phật khéo tu,
Lắm công nhiều đức khó trù tính toan,
Chẳng riêng ta khó nghĩ bàn;
Đến như chư Phật sáu phang như là:
Đông Phương: Bất Động Bụt Đà
Hay A Súc Bệ cũng là tên ghi
Tu Di Tướng, Đại Tu Di,
Tu Di Quang Phật và Ngài Diệu Âm,…
Bên Phương Nam: Nhật Nguyệt Đăng
Đèn từ sáng mãi như trăng, mặt trời;
Danh Văn: vẳng tiếng khắp nơi;
Đại Diện Kiên: trí sáng ngời, đảm đang;
Tu Di Đăng: trí sáng cao,
Vô Lượng Tinh Tiến: cần lao không lường…
Ở bên thế giới Tây Phương,
Có: Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Tướng và
Vô Lượng Tràng: thắng quân Ma
Đại Quang Phật, với Bù Đà Đại Minh;
Bửu Tướng Phật: tốt thân hình,
Tịnh Quang Phật: đức, trí thanh khác thường …
Bên Bắc Phương, có: Diệm Kiên,
Tối Thắng Âm: tiếng hơn tiên điểu cà
Nan Thư hay Nan Trở là:
Không chi phá hoại, như tòa Kim cang
Nhựt Sanh là: Ánh mọc sang,
Phật Ngài xuất hiện huy hoàng như kia;
Võng Minh: lưới sáng nhiều tia,
Trí Ngài lẫn suốt ví kìa Đế Châu
Phương Dưới sâu, có Phật là:
Sư Tử: uy mãnh, Thiên Ma kinh hồn!
Danh văn là: tiếng khắp đồn;
Danh Quang: tên tuổi rỡ cồn gần xa;
Cao sâu là pháp: Đạt ma;
Pháp Tràng, Trì Pháp, phép ra: phướng, gìn …
Cả trong thế giới Phương Trên
Phạm Âm: tiếng Phật, nghe, tin không lầm;
Tú Vương: Ánh Phật chiếu lâm,
Như sao Bắc Đẩu, trăng rằm trung thiên;
Phật tên Hương Thượng, kinh biên:
Thượng thừa năm phận… đàn chiên… Sáu Thù;
Hương Quang: trí Phật rất mầu,
Thơm tho tỷ thức, sáng làu nhãn căn
Đại Diệm Kiên: huệ đảm đang,
Lửa hừng đuốc trí, vai mang việc nhà;
Phật tên Tạp Sắc Bửu Hoa,
Nghiêm thân: muôn hạnh, chói lòa ba thân;
Ta La Thụ Vương chắc gân,
Như cây cao cả trên dân vững vàng
Bửu Hoa Đức Phật: vẻ vang
Kiến Nhất Thế Nghĩa: biết vàn muôn câu;
Như Tu Di Sơn: báu mầu
Đức Phật chót đầu, thể núi tột cao…
Cả sáu phương, Phật xiết bao;
Hằng hà sa số, phương nào cũng như:
Mỗi phương nhiều đức Phật từ,
Mỗi nước mỗi Phật hiện chừ hóa duyên;
Lưỡi từ bủa khắp đại thiên
Thốt lời thành thật mà “khuyên bảo” rằng:
“Chúng sanh người phải “tin” kinh,
Chư Phật hộ niệm ngợi khen khôn cùng!
À Thân Tử! Có biết không?
“Chư Phật hộ niệm kinh” dùng ý chi ?
Là: Như Nam tử, Nữ nhi,
Nghe tên: “kinh… Phật” thụ trì, xưng danh;
Thế là gái tín, trai lành,
Được “… Phật hộ niệm” tiến nhanh “… Bồ Đề”.
Thế nên Ngươi với chúng nề!
“Nghe” theo chư Phật, “tin” về lời ta.
Đối với nước Phật Di Đà,
Hoặc ai nguyện: trước, nay… và, nguyện sau:
Chúng kia tất cả với nhau,
Đều được “bất thối bực cao bồ đề”;
Thỉ, chung đều được sanh về,
Nguyện: trước sanh trước… sau về với sau.
Vậy “khuyên” Thiện, Tín mau mau:
Phát “mau” nguyện đó, sanh “mau” nước kìa.
Đối sáu phương, chư Phật kia,
Ta nay khen tặng A Di các Ngài:
Ngài nào cũng vẫn sống dai,
Lắm công, nhiều đức, khó suy khôn bàn!
Đối ta, Chư Phật khen, than,
Cũng công đức đó, mà ban lời này:
“Đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
Hay làm được việc cực kỳ gian nan!
Ta bà là cõi khốn nàn!
Kiếp đời tăng giảm, thời gian hoại thành
Nhân sanh kiến thức vô minh:
Đảo điên tà kiến, tạo thành trược ô;
Tham, sân phiền não hồ đồ:
Rủi ro tám nạn, vập vồ ba tai;
Chúng sanh động vật hình hài:
Thân mang máu mủ, tâm say vía hồn;
Trăm năm sanh mạng nan tồn:
Chết mang mễn nghiệp, sống dồn dập khiên!
Ở trong năm trược truân chuyên!
Ráng tu thành Phật, nên khen tặng Ngài
Đã đành “tu, chứng” khó thay!
Lại vì chúng ấy, nói ngay kinh này;
Khổ vì chúng khó nghe hoài,
Khuyên cho tín nguyện chẳng nài từ nan!”
Thế, lời Chư Phật khen ban;
Ngươi nay phải biết, ta đang vẫn làm:
Hi sinh với việc nan kham!
Vì: ngũ ác thế, đắc Tam Bồ Đề
Khổ: vì “tu, chứng” đã ghê!
Lại vì “thuyết pháp” ê chề! Người ơi!
Kinh này Phật thuyết đã rồi;
Các Ngài: Thân tử… Các ngôi: pháp thần…;
Tỳ kheo, Bồ Tát, thế nhân;
Trời: vua Đế thích, Quỉ Thần: Tu La…;
Chúng: nghe, tin, nguyện, truyền ra;
Hoan nghênh bái tạ Phật Đà rồi lui.

 

Ý kiến bạn đọc
30 Tháng Giêng 202014:21
Khách
Rất hay, tôi muốn nhận kinh này
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27163)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21762)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20418)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24736)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18983)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24732)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30969)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23977)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27758)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26504)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21297)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23209)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38117)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18430)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19948)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19032)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23140)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23867)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22784)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22903)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29559)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20633)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15844)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18842)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19645)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20147)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19948)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18110)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22916)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34158)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16409)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16915)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39226)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26049)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20094)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18842)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24049)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29108)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22899)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30939)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20998)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26849)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20666)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26246)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23318)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19815)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24668)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30021)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20213)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20400)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15138)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15824)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23866)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19839)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant