Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Tượng Đầu Tinh Xá

06 Tháng Giêng 201400:00(Xem: 14921)
Kinh Tượng Đầu Tinh Xá

KINH TƯỢNG ĐẦU TINH XÁ

Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466, Nguyên tác: [1]

Hán dịch: Đời Tùy, Tam tạng Tì-ni-đa-lưu-chi người nước Thiên Trúc.
Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành.

--- o0o --- 



Đúng thật như thế, chính tôi được nghe: Một thời, đức Bà-già-bà[1] ngụ tại tinh xá Tượng Đầu, thành Già-da[2].

Bấy giờ, Như Lai thành Phật chưa lâu, Ngài cùng với một nghìn đại tì-kheo và vô số chúng đại bồ-tát nhóm họp. Các đại tì-kheo này là những người xưa kia đã từng theo tiên nhân Loa Kế[3] tu tập, các vị ấy đều là bậc A-la-hán, việc làm đã xong, buông bỏ gánh nặng, thoát khỏi sinh tử, sạch các phiền não, đạt được không tuệ bình đẳng, trí tâm chính định, hiểu biết mọi việc, đã đến bờ giác.

Lúc ấy Thế Tôn ngồi yên lặng tư duy, nhập các môn tam-muội, quán sát khắp pháp giới, tự biết đã thành đạo, đầy đủ Nhất thiết trí, các việc làm đã xong, buông bỏ mọi gánh nặng, vượt qua dòng sinh tử, không còn tham lam bỏn xẻn, nhổ gai ba độc, không còn khát ái[4], gom thuyền đại pháp, gióng trống đại pháp, thổi kèn đại pháp, dựng cờ đại pháp, đã đoạn sinh tử. Ngài diễn thuyết chính pháp:

- Đóng cửa các đường ác, mở cửa các đường thiện, lìa hẳn những cõi xấu, dạo nơi cõi tịnh. Ta quán sát pháp này, ai là người tu tập bồ-đề, ai là người chứng bồ-đề và ai là người sắp chứng bồ-đề? Từ đời quá khứ, hiện tại cho đến vị lai, ai là người chứng đắc? Là thân chứng đắc hay tâm chứng đắc?

 Nếu dùng thân chứng thì thân này vô tri, giống như cỏ, cây, cát, đá, tường, vách không có sự hiểu biết! Thân này do bốn đại hòa hợp, được cha mẹ sinh ra, luôn cần ăn uống, quần áo, tắm rửa, xoa bóp, nhưng cuối cùng rồi cũng hư hoại, là pháp không bền chắc. Còn bồ-đề kia, chỉ có tên rỗng và không có tướng thật, không thanh, không sắc, không thành tựu, không thể thấy, không thể vào, không thể biết, không đi, không đến, v.v… và các pháp này cũng không thể ràng buộc nó. Bồ-đề có khả năng vượt qua các pháp, vượt ngoài tam giới; không thể thấy, không thể nghe, không có ngã và ngã sở, không người tạo tác, không có xứ sở, không có hang động, không nắm giữ, không dính mắc, không ra, không vào, không mong cầu, không trụ, không tướng, không mạo, không đây, không kia, không thể chỉ bày, giống như huyễn hóa, chỉ do mười hai nhân duyên sinh, không nơi chốn, không thể thấy, lìa tướng, như hư không hiện, vắng lặng, không âm thanh, không tiếng vang, không văn tự, cũng không nói năng. Nếu biết như thế, gọi là bồ-đề.

 Nếu dùng tâm chứng đắc, thì tâm này không cố định, như huyễn hóa, đều do nghiệp vọng tưởng quá khứ mà sinh, không hình tướng, không thể nắm bắt, giống như hư không. Bồ-đề không có nơi chốn; chẳng thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai; không có tất cả pháp; tuy vẫn nói năng nhưng có danh mà không thật. Đó là pháp vô vi, là không, vô tướng, vô tác, chẳng có, chẳng không, chẳng thể chỉ bày, không thể nói, không thể nghe. Bồ-đề chẳng phải từ quá khứ để được, chẳng phải từ vị lai để được, chẳng phải nơi hiện tại mà được, cũng không thể lìa ba đời mà có được. Bồ-đề không có tướng, chẳng tạo tác, cũng chẳng phải không tạo tác. Nếu có thể hiểu rõ pháp ba đời như thế, tức là bồ-đề”.

Khi ấy, bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

- Kính bạch đức Thế Tôn! Nếu vô tướng là bồ-đề, thì hiện tại các thiện namthiện nữ an trụ vào đâu để thành tựu bồ-đề?

Phật bảo bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

- Các bồ-tát học bồ-đề nên an trụ như thế!

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:

- Kính bạch đức Thế Tôn! Các bồ-tát nên an trụ như thế nào?

Phật bảo bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

- Bồ-đề vượt trên ba cõi, ngoài sự nói năng, lìa các văn tự, không có trụ xứ. Lại nữa, này Văn-thù-sư-lợi! Đại bồ-tát trụ mà không có chỗ trụ là trụ bồ-đề; trụ mà không chấp trước là trụ bồ-đề; trụ nơi “pháp không” là trụ bồ-đề; trụ vào pháp tính là trụ bồ-đề; trụ vào tất cả pháp khôngthể tướng là trụ bồ-đề; trụ vào niềm tin vô lượng là trụ bồ-đề; trụ không tăng giảm là trụ bồ-đề; trụ mà không có niệm khác là trụ bồ-đề, trụ như bóng trong gương, như tiếng vang trong hang trống, như trăng trong nước, như sóng nắng. Này Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát trụ vào các pháp như thế là trụ bồ-đề.

Khi ấy, thiên tử Tịnh Quang Diệm thưa với bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

- Thưa bồ-tát! Tu tập như thế nào và những nghiệp gì là hạnh bồ-tát?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi trả lời:

- Này thiên tử! Khởi tâm đại từ với chúng sinh là hạnh bồ-tát.

Thiên tử lại thưa:

- Thưa bồ-tát! Các bồ-tát tu tập như thế nào để khởi tâm đại từ?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

- Này thiên tử! Không có tâm nịnh bợ, lừa dối là tâm đại từ của bồ-tát.

Thiên tử:

- Thưa bồ-tát! Tu tập như thế nào để không nịnh bợ, lừa dối?

 Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

 - Này thiên tử! Khởi tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, chính là không nịnh bợ, lừa dối!

Thiên tử:

- Thưa bồ-tát! Các đại bồ-tát tu tập như thế nào để khởi tâm bình đẳng với tất cả chúng sinh?

 Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

 - Này thiên tử! Bồ-tát không khởi tâm phân biệt đây-kia, không có các dị kiến[5] là hạnh bình đẳng.

Thiên tử:

- Thưa bồ-tát! Các đại bồ-tát phải tu tập như thế nào để không có tâm phân biệt đây-kia, không có các dị kiếnkhởi tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh?

 Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

 - Này thiên tử! Các bồ-tát nên khéo léo nhớ nghĩ, cung kính, không phân biệt đây-kia, không có các dị kiến, bình đẳng với các pháp.

Thiên tử:

- Thưa bồ-tát! Các đại bồ-tát tu tập nhờ vào đâu để khởi tâm khéo nhớ nghĩ, cung kính cho đến không có tâm phân biệt đây-kia và các dị kiến?

 Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

 - Này thiên tử! Các bồ-tát tu tập, do phát tâm bồ-đề mà khéo léo nhớ nghĩ và cung kính.

 Thiên tử:

- Thưa bồ-tát! Tâm bồ-đề từ đâu mà phát khởi?

 Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

 - Này thiên tử! Từ sáu ba-la-mật mà phát khởi tâm bồ-đề.

Thiên tử:

- Thưa bồ-tát! Sáu ba-la-mật do đâu mà khởi?

 Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

 - Này thiên tử! Từ trí tuệ phương tiệnphát khởi sáu ba-la-mật.

Thiên tử:

- Thưa bồ-tát! Trí tuệ phương tiện từ đâu mà phát khởi ?

 Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

 - Này thiên tử! Từ tâm không buông lungphát khởi trí tuệ phương tiện.

 Thiên tử:

- Thưa bồ-tát! Tâm không buông lung từ đâu khởi?

 Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

 - Này thiên tử! Do tu tập ba nghiệp thiện mà khởi.

Thiên tử:

- Thưa bồ-tát! Tu ba nghiệp thiện từ đâu phát khởi?

 Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

 - Này thiên tử! Từ việc tu tập mười nghiệp thiện khởi.

Thiên tử:

- Thưa bồ-tát! Tu mười nghiệp thiện từ đâu phát khởi?

 Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

 - Này thiên tử! Từ chỗ khéo léo nhiếp phục thân, miệng, ý mà phát khởi.

 Thiên tử:

- Thưa bồ-tát! Lại từ đâu mà phát khởi ba nghiệp thiện này?

 Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

 - Này thiên tử! Từ sự thận trọng tư duy kĩ mà phát khởi.

Thiên tử:

 - Thưa bồ-tát! Sự thận trọng tư duy kĩ này từ đâu phát khởi?

 Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

 - Này thiên tử! Từ chỗ thận trọng suy xétquán hành[6]phát khởi.

Thiên tử:

- Thưa bồ-tát! Thận trọng suy xét kĩ về quán hành từ đâu khởi?

 Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

 - Này thiên tử! Từ chỗ ghi nhớ thụ trì không quên mà phát khởi.

 Thiên tử:

- Thưa bồ-tát! Có mấy loại tâm ghi nhớ thụ trì không quên? Vì nhân duyên gì mà có các quả báo?

 Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

 - Này thiên tử! Đại bồ-tát có bốn loại phát tâm từ nhân được quả: Một, sơ phát tâm[7]; hai, chuyên tâm tu tập; ba, không lui sụt; bốn, đồng sinh ra với các pháp thiện. Nhờ sơ phát tâm mà được chuyên tâm, nhờ chuyên tâm tu tập mà không còn lui sụt, nhờ không lui sụt mà đồng sinh với các pháp thiện.

Lại nữa, này thiên tử! Người sơ phát tâm giống như hạt giống được gieo trên ruộng tốt; chuyên tâm tu tập giống như mầm mới nứt; tu tập không lui sụt giống như thân, gốc, cành, lá tăng trưởng; đồng sinh với các pháp thiện giống như cây ra hoa kết trái rồi chín. Người sơ phát tâm giống như người thợ đóng xe biết rõ về các loại gỗ; chuyên tâm tu tập giống như ráp các bộ phận bằng gỗ đó lại; tu tập không lui sụt giống như chiếc xe đã được hoàn thành; đồng sinh với các pháp thiện giống như công dụng chuyên chở của chiếc xe.

Người sơ phát tâm giống như mặt trăng ngày mồng một; chuyên tâm tu tập giống như mặt trăng ngày mồng năm cho đến ngày mồng bảy; tu tập không lui sụt giống như mặt trăng ngày mồng mười; đồng sinh với các pháp thiện giống như mặt trăng ngày mười bốn; trí tuệ Như Lai tròn đầy không khuyết giống như mặt trăng ngày rằm.

 Lại nữa, này thiên tử! Người sơ phát tâm thì vượt qua giai vị Thanh văn; phát tâm lần thứ hai vượt qua giai vị Bích-chi-phật; phát tâm lần thứ ba vượt qua Bất định địa ; phát tâm lần thứ tư thì đạt đến Định địa.

 Giống như âm ‘ác’ và ‘a’ đều là căn bản của tất cả chữ; người sơ phát tâm cũng thế, là căn bản của tất cả pháp thiện. Như người học chữ, được chút ít trí tuệ; người chuyên tâm tu tập cũng vậy, có được chút ít trí tuệ. Giống như những nhà toán học tínhô lượng số, biết rõ từng phân lượng; người tâm không lui cũng vậy, biết tâm không còn lui sụt. Như người thông suốt các kinh luận, đồng sinh với các pháp thiện, tâm thiện rõ ràng sáng suốt cũng giống như thế.  

 Lại nữa, này thiên tử! Người phát tâm lần đầu chuyên nghĩ nhớ nhân thiện; phát tâm lần thứ hai chuyên nghĩ nhớ trí tuệ; phát tâm lần thứ ba chuyên nghĩ nhớ thiền định; phát tâm lần thứ tư chuyên nghĩ nhớ đến quả.

Người phát tâm lần đầu thụ trì nhân thiện; phát tâm lần thứ hai thụ trì trí tuệ; phát tâm lần thứ ba thụ trì thiền định; phát tâm lần thứ tư thụ trì quả.

Người phát tâm lần đầu thành tựu nhân thiện; phát tâm lần thứ hai thành tựu trí tuệ; phát tâm lần thứ ba thành tựu thiền định; phát tâm lần thứ tư thành tựu chính quả.

Người phát tâm lần đầu nhờ thiện để vào đạo; phát tâm lần thứ hai nhờ trí để vào đạo; phát tâm lần thứ ba nhờ thiền để vào đạo; phát tâm lần thứ tư nhờ quả để vào đạo.

Người phát tâm lần đầu như thầy thuốc biết các loại thuốc; phát tâm lần thứ hai như thầy thuốc biết phân lượng thuốc; phát tâm lần thứ ba như thầy thuốc tùy bệnh cho thuốc; phát tâm lần thứ tư như cho người bệnh uống thuốc.

Người phát tâm lần đầu sinh vào nhà Pháp vương; phát tâm lần thứ hai, học pháp của Pháp Vương; phát tâm lần thứ ba, tu theo hạnh Pháp vương; phát tâm lần thứ tư, hoàn thành giai vị Pháp vương.

Trên đây là bốn loại phát tâm.

Bấy giờ, thiên tử Tịnh Quang Diệm lại thưa:

- Thưa bồ-tát! Đại bồ-tát tu tập pháp môn gì để mau chứng A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề?

 Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

 - Này thiên tử! Có hai pháp môn giúp đại bồ-tát mau chứng quả A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề: Một, pháp môn phương tiện; hai, pháp môn Bát-nhã. Vì thụ trì trí phương tiện có thể quán xét tất cả chúng sinh; thụ trì Bát-nhã có thể quán sát tất cả pháp không, trừ được nghi chấp. Nhờ trí phương tiện nên hòa hợp các pháp; do Bát-nhã nên các pháp không hòa hợp. Phương tiện là nhân, bát-nhã là quả. Do phương tiện mà biết tất cả pháp; nhờ Bát-nhã mà biết các pháp là không. Dùng trí phương tiện trang nghiêm cõi Phật; nhờ Bát-nhã mà biết các cõi Phật đều bình đẳng. Do trí phương tiện nên biết căn tính của các chúng sinhsai biệt; nhờ Bát-nhã, nên biết căn tính của các chúng sinh đều không. Nhờ phương tiện mà được vị cam-lộ, thành tựu bồ-đề; nhờ Bát-nhã, nên biết pháp chư Phật là chính đạo bình đẳng.

 Lại nữa, này thiên tử! Có hai hạnh khiến đại bồ-tát mau chứng quả A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề: Một, hạnh hữu vi; hai, hạnh vô vi. Hạnh hữu vi thì tóm thâu năm ba-la-mật; hạnh vô vi tóm thâu bát-nhã ba-la-mật.

 Lại có hai hạnh khiến đại bồ-tát mau chóng được bồ-đề: Một, hạnh hữu lậu; hai, hạnh vô lậu. Hạnh hữu lậu là năm ba-la-mật; hạnh vô lậubát-nhã ba-la-mật.

 Lại có hai hạnh có thể khiến đại bồ-tát mau chóng được bồ-đề: Một, hạnh trụ; hai, hạnh bất trụ. Hạnh trụ là năm ba-la-mật; hạnh bất trụ là bát-nhã ba-la-mật.

 Lại có hai hạnh có thể khiến đại bồ-tát mau chóng được bồ-đề: Một, hạnh hữu lượng; hai, hạnh vô lượng. Hạnh hữu lượng là năm ba-la-mật; hạnh vô lượngbát-nhã ba-la-mật. Hạnh hữu lượngpháp hữu tướng; hạnh vô lượng là pháp vô tướng.

 Lại có hai hạnh có thể khiến đại bồ-tát mau chóng được bồ-đề: Một, trí hạnh; hai, định hạnh. Từ Sơ địa cho đến Thất địa tu tập trí hạnh; từ Bát địa cho đến Thập địa tu tập định hạnh.

 Khi ấy, bồ-tát Bất Khiếp Nhược Trí Tổng Trì thưa:

 - Thưa bồ-tát! Đại bồ-tát hiểu nghĩa và trí như thế nào?

 Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

 - Này thiện nam tử! Nghĩa vô thể, trí cũng vô thể.

 Bồ-tát Bất Khiếp Nhược Trí Tổng Trì lại hỏi:

 - Thưa bồ-tát! Thế nào là nghĩa vô thể và trí cũng vô thể?

 Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đáp:

 - Này thiện nam tử! Nghĩa vô thể, nghĩa chính là vô vi, vô tác, không tướng, không mạo, không đến, không đi. Trí vô thể, trí tức không phải pháp định, cũng không phải pháp bất định. Nghĩa thì vô thể, chẳng có, chẳng không. Trí thì thể không, chẳng có, chẳng không; không lấy, không bỏ. Ông hãy thụ trì như thế!

 Lại nữa, ‘nghĩa’ thì chẳng phải định, chẳng phải không định; trí chínhtâm đạo, tâm và trí bình đẳng không sai biệt. Lại nữa, trí lấy thiền làm thể; thiền và trí bình đẳng không sai biệt. Dùng phương tiện quán ấm, nhập, giới, mười hai nhân duyên sinh tử lưu chuyển, tướng thiện ác giống như huyễn hóa, chẳng có, chẳng không. Các đại bồ-tát nên quán các pháp như thế!

 Lại nữa, này thiện nam tử! Đại bồ-tát có mười trí hành: Một, trí nhân; hai, trí quả; ba, trí nghĩa; bốn, trí phương tiện; năm, trí bát-nhã; sáu, trí thụ trì; bảy, trí ba-la-mật; tám, trí đại bi; chín, trí thương xót giáo hóa chúng sinh; mười, trí không chấp tất cả pháp.

 Đại bồ-tát nên phát khởi mười hạnh thanh tịnh: Một, phát khởi thân nghiệp thanh tịnh của chính mình; hai, phát khởi thân nghiệp thanh tịnh của tất cả chúng sinh; ba, phát khởi khẩu nghiệp thanh tịnh của bản thân; bốn, phát khởi khẩu nghiệp thanh tịnh của tất cả chúng sinh; năm, phát khởi ý nghiệp thanh tịnh của bản thân; sáu, phát khởi ý nghiệp thanh tịnh của tất cả chúng sinh; bảy, phát khởi hạnh thanh tịnh bình đẳng cho tất cả chúng sinh; tám, phát khởi hạnh thanh tịnh bình đẳng ngoài tất cả chúng sinh; chín, phát khởi trí thanh tịnh của chư Phật; mười, phát khởi hạnh nguyện làm thanh tịnh quốc độ Phật và giúp chúng sinh thành tựu Phật đạo. Nếu có chúng sinh bệnh tật, thì cung cấp thuốc men để họ được khỏe mạnh; người nhiều phiền não, thì dùng trí vô vigiáo hóa họ, khiến họ ra khỏi ba cõi và đầy đủ tất cả công đức trí tuệ của đạo vô vi. Đây gọi là bồ-tát đầy đủ mười hạnh thanh tịnh.

 Lại nữa, đại bồ-tát có mười phương tiện: Một, phương tiện ba-la-mật; hai, phương tiện thụ trì; ba, phương tiện trí tuệ; bốn, phương tiện phương tiện; năm, phương tiện đại bi; sáu, phương tiện đầy đủ trí; bảy, phương tiện đầy đủ tuệ; tám, phương tiện niệm an tĩnh; chín, phương tiện hạnh chân thật; mười, phương tiện bình đẳng không thương ghét tất cả chúng sinh.

 Đại bồ-tát lại có mười loại phân biệt vô tận nơi thân: Một, phân biệt sự vật vô tận; hai, phân biệt phiền não vô tận; ba, phân biệt pháp vô tận; bốn, phân biệt khát ái vô tận; năm, phân biệt các kiến vô tận; sáu, phân biệt thiện ác vô tận; bảy, phân biệt sự tạo tác vô tận; tám, phân biệt tâm không chấp trước vô tận; chín, phân biệt hòa hợp vô tận; mười, phân biệt trí bồ-đề viên mãn vô tận.

 Đại bồ-tát có mười hạnh điều phục: Một, điều phục để tu thiện; hai, điều phục tâm bỏn xẻn, thực hành bố thí nhiều; ba, điều phục tâm không tinh tiến; bốn, điều phục ba nghiệp; năm, điều phục tâm ác độc, không còn sân giận; sáu, điều phục để phát khởi tâm từ mẫn; bảy, điều phục tâm lười biếng; tám, điều phục để siêng tu pháp Phật; chín, điều phục tâm bất thiện, không làm các việc ác; mười, điều phục để được thiền định tự tại giải thoát.

  Bồ-tát lại có mười hạnh điều phục khác: Một, điều phục phá ngu si vô trí; hai, điều phục phương tiện tổng trì bát-nhã ba-la-mật; ba, điều phục phiền não; bốn, điều phục sinh khởi đạo; năm, điều phục tổng trì chân thật; sáu, điều phục để không rơi vào đường ác; bảy, điều phục tâm bất thiện; tám, điều phục sự tự tại đúng thời và không đúng thời; chín, điều phục tự thân; mười, điều phục quán không.

 Lại nữa, này thiện nam tử! Đại bồ-tát lại có mười hạnh điều phục khác. Đó là, điều phục để xa lìa ba nghiệp ác của thân, bốn nghiệp ác của miệng và ba nghiệp ác của ý. Đại bồ-tát còn có mười pháp quán bên trong và bên ngoài mà không khởi chấp trước: Một, quán trong thân đều là không, không khởi chấp trước; hai, quán ngoài thân cũng đều là không, không khởi chấp trước; ba, quán các pháp bên trong và bên ngoài thân đều là không, không chấp trước; bốn, không chấp trước tất cả trí; năm, không chấp trước tất cả pháp tu tập; sáu, quán các giai vị Hiền thánhkhông chấp trước; bảy, tu tập lâu dài được thanh tịnhkhông chấp trước; tám, trụ vào bát-nhã ba-la-mậtkhông chấp trước; chín, thuyết giảng kinh luận giáo hóa chúng sinhkhông chấp trước; mười, quán các chúng sinh, phát khởi phương tiện lớn, từ bi thương xótkhông chấp trước.

 Này thiện nam tử! Đại bồ-tát nên như thế mà giữ tâm kiên cố tu đạo bồ-đề. Nếu không có tâm bồ-đề kiên cố như thế, thì không gọi là bồ-tát. Thế nào là kiên cố? Đó là ba nghiệp thân, miệng, ý tương ưng, không trái ngược nhau. Thế nào là không kiên cố? Đó là ba nghiệp thân, miệng, ý không tương ưng và trái ngược nhau.

 Đại bồ-tát lại có hai hạnh chân chính, để giữ vững tâm bồ-đề: Một, chính niệm bồ-đề; hai, tu tập thiền định đoạn các phiền não.

 Lại nữa, này thiện nam tử! Đại bồ-tát lại có hai hạnh chân chính kiên cố: Một, điều thân mình; hai, điều thân chúng sinh.

 Đại bồ-tát lại có hai hạnh chân chính kiên cố: Một, siêng năng tu tập, được Nhất thiết trí; hai, không tu tập mà được Nhất thiết trí

 Đại bồ-tát lại có hai hạnh chân chính kiên cố: Một, trụ giai vị phương tiện; hai, trụ giai vị bất động.

 Đại bồ-tát lại có hai hạnh chân chính kiên cố: Một, xa lìa cõi nhiễm; hai, dùng phương tiện tự tu tập viên mãn từng giai vị.

 Đại bồ-tát lại có hai hạnh chân chính kiên cố: Một, thị hiện giai vị Thanh văn và Bích-chi-phật; hai, không lui sụt phương tiện đạt bồ-đề Phật.

 Này thiện nam tử! Đại bồ-tát dùng vô lượng phương tiện chính hạnh kiên cố như thế để được A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề!

 Bấy giờ, đức Thế Tôn khen ngợi bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

 - Hay thay, hay thay! Văn-thù-sư-lợi đã giảng nói những lời này!

 Khi nghe Đức Phật thuyết pháp này, bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng vô lượng người, trời, a-tu-la, càn-thát-bà, … liền tin nhận, đỉnh lễ, hoan hỉ vâng theo.

 

------------------------------------------------------------------

 

[1] Bà-già-bà: 婆伽婆 Phạm: Bhagavat. Một trong các hiệu của chư Phật. Hán dịch: Thế Tôn, bậc có đầy đủ mọi đức, được người đời tôn trọng cung kính.

[2] Thành Già-da 伽耶城: đô thành của nước Ma-kiệt-đà thuộc Ấn-độ thời xưa.

[3] Tiên nhân Loa Kế螺髻仙人: Tiền thân của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Theo luận Đại trí độ 17, thuở xưa, đức Thích-ca là vị tiên tên Thượng xà-lê, vì có búi tóc hình trôn ốc trên đỉnh đầu nên gọi là tiên nhân Loa Kế.

[4] Khát ái渴愛: Tâm mong cầu ái dục không biết nhàm chán phàm phu, giống như người khát đi tìm nước.

[5] Dị kiến異見 Thấy hiểu khác. Chỉ kiến giải xấu ác do phiền não sinh khởi.

[6] Quán hành觀行 Hành pháp quán tâm. Tức là tu hành quán tâm, soi rọi tâm mình để rõ suốt bản tính.

[7] Sơ phát tâm 初發心: Lần đầu tiên tâm phát khởi cầu bồ-đề.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27162)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21762)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23601)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20416)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24736)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18983)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24731)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30969)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23977)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27758)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26504)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21297)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23208)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38117)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18430)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19948)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19031)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23140)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23866)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22784)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22902)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29559)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20633)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15843)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18842)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19645)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20147)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19948)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18110)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22916)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34158)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16409)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16915)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39224)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26047)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20094)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18842)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24049)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29107)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22899)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30939)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20997)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26846)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20665)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26245)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23317)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19815)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24668)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30020)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20212)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20400)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15138)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15822)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23865)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19839)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant