Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

312 Câu Tụng Căn Bản Duy Thức Học

25 Tháng Hai 201400:00(Xem: 17711)
312 Câu Tụng Căn Bản Duy Thức Học


312 câu tụng

CĂN BẢN DUY THỨC HỌC

 

HẠNH CƠ Tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận:

- Duy Thức Tam Thập Tụng, nguyên tác Phạn văn của Bồ-tát Thế Thân, pháp sư Huyền Trang dịch ra Hán văn;

 - Bát Thức Qui Củ Tụng, nguyên tác Hán văn của pháp sư Huyền Trang.

chan-dung-duc-phat


1. DẪN NHẬP

 

Thế gian NGÃ và PHÁP,

gồm muôn hình vạn trạng,

tất cả không thật có,

đều do THỨC chuyển biến.

 

Thức (năng biến) có ba:

Tàng thức (A-lại-da),

Tư-lương thức (Mạt-na),

và Liễu-biệt-cảnh thức.

 

2. THỨC A-LẠI-DA (Thức Thứ Tám)

 

Thứ nhất: A-lại-da,

thường gọi tên Tàng thức,

cũng gọi Dị-thục thức,

hay Nhất-thiết-chủng thức.

 

Tánh vô phú vô kí.

Huân tập mọi chủng tử,

chứa giữ và chuyển hiện,

căn thân, khí, nhận thức.

 

Cách nhận thức: hiện-lượng.

Đối tượng là tánh cảnh

(gồm chủng tử, căn thân,

cùng vô tình thế gian).

 

Tương ưng năm biến-hành:

xúc cùng với tác-ý,

xả-thọ, tưởng,tư,

đều vô phú vô kí.

 

Biển Tàng thức mênh mông,

sâu thẳm khó nghĩ lường,

từ đó bảy chuyển thức

hiện khởi và sinh tồn.

 

Không thể nào nhận biết

sự hoạt động thâm tế

của tất cả chủng tử

trong thức A-lại-da.

 

Cũng không biết đường lối

A-lại-da chấp thọ;

liễu biệt; và thọ sinh

vào ba cõi, chín địa.

 

Hằng chuyển như dòng thác.

Đi sau, đến trước tiên.

A-la-hán, Bất-động,

rời bỏ tên “Tàng thức”;

 

đến địa vị Diệu-giác,

“Dị-thục thức” sạch không;

chủng tử thuần vô lậu,

chuyển thành “Vô-cấu thức”.

 

Đó là trí “Đại-viên”,

tuệ giác Phật-đà,

chiếu sáng mười phương cõi,

độ muôn loài chúng sinh.

 

3. THỨC MẠT NA (Thức Thứ Bảy)

 

Thứ nhì: thức Mạt-na,

được gọi tên là Ý.

Bản chấthành tướng

hằng thẩm tư lương.

 

Chuyển hiện từ Tàng thức,

lại bám chặt Tàng thức,

chấp làm Ngã, Ngã-sở,

ngày đêm đắm hôn mê.

 

Bốn phiền não căn bản:

ngã-singã-kiến,

ngã-mạn cùng ngã-ái,

luôn đeo dính ngăn che.

 

Tương ưng năm biến-hành

(thọ đây là xả-thọ);

tâm sở tuệ (biệt-cảnh);

tám phiền não đại-tùy.

 

Mạt-na (và tâm sở)

tánh hữu phú vô kí.

Chỉ duyên cảnh đới-chất.

Cách nhận thức: phi-lượng.

 

Mạt-na làm chỗ nương

cho cả sáu chuyển thức

theo đó thành nhiễm, tịnh,

nên gọi “nhiễm-tịnh-y”.

 

địa vị phàm phu,

A-lại-da sinh đâu,

Mạt-na sinh theo đó,

“hằng, thẩm” luôn chấp ngã.

 

Hoan-hỉ-địa, bắt đầu

chuyển thành “Bình-đẳng-tánh”;

La-hán, Diệt-tận-định,

Bát-địa: hết chấp Ngã.

 

Chứng quả vị Phật-đà,

hiện thân “tha thọ dụng”,

Bồ-tát và chúng sinh

thấm nhuần ơn hóa độ.

 

4. THỨC LIỄU BIỆT CẢNH (Sáu Thức Trước)

 

Thứ ba: Liễu-biệt-cảnh,

gồm sáu thức khác nhau:

Nhãn, Nhĩ, Tị, Thiệt thức,

Thân thứcÝ thức.

 

Do từ Căn-bản thức,

nương căn, trần làm duyên,

sáu thức này hiện khởi,

như sóng nương trên nước. 

 

4a. Ý THỨC (Thức Thứ Sáu)

 

Do Ý căn (Mạt-na)

tiếp xúc với pháp trần,

chủng tử từ Tàng thức

chuyển hiện ra Ý thức.

 

Tánh: thiện, ác, vô-kí.

Đối tượng gồm ba cảnh:

tánh-cảnh, đới-chất-cảnh,

đặc biệt độc-ảnh-cảnh.

 

Duyên cảnh bằng ba cách:

hiện-lượng (chân và tợ),

thường xuyên là tỉ-lượng,

nhiều trường hợp phi-lượng.

 

Hoạt động dễ nhận biết

ở cả hai hình thái:

Ý thức ngũ-câu;

Ý thức độc-đầu.

 

Bốn trạng thái độc-đầu:

Ý thức tán-vị,

Ý thức trong thiền định,

trong mộng, và điên loạn.

 

Thức này thường tương ưng

năm mươi mốt tâm sở:

năm tâm sở biến-hành

(đủ cả ba cảm thọ);

năm biệt-cảnhdục,

thắng-giải, niệm, định, tuệ,

mỗi một tâm sở này

đối tượng duyên khác nhau;

mười một thiện tâm sở:

tín, tàm, quí, vô-tham,

vô-sân và vô-si,

cần, an, bất-phóng-dật,

hành-xả bất-hại;

sáu căn-bản phiền-não:

tham, sân hận, si mê,

mạn, nghi, và ác-kiến;

hai mươi tùy-phiền-não,

chia ra tiểu, trung, đại:

mười phiền não tiểu-tùy:

phẫn, hận, phú, não, tật,

xan, cuống, siểm, hại, kiêu;

hai phiền não trung tùy:

vô-tàm vô-quí;

tám phiền não đại-tùy:

trạo-cử với hôn-trầm,

bất-tín cùng giải-đãi,

phóng-dậtthất-niệm,

tán-loạn, bất-chánh-tri;

bốn tâm sở bất-định:

hối, miên, tầmtừ,

mỗi loại tâm sở này

có thể thiện hay ác.

 

Ý thức luôn biến đổi:

hết thiện sang bất thiện,

lại đến lúc vô kí;

đang khiDục giới,

cũng vào định Sắc giới,

hoặc định Vô-sắc giới;

vui, buồn... bao tâm hành

thay nhau đến rồi đi...

 

Nương tánh “thẩm” của Ý,

làm động lực mạnh mẽ,

sai khiến thân và miệng

tạo các nghiệp dẫn, mãn.

 

Dùng chánh niệm quán sát

hoạt động của Ý thức,

có thể biết dễ dàng

quả báo trong ba cõi.

 

Ý thức thường hiện khởi,

trừ ở trời Vô-tưởng,

trong hai định vô-tâm,

ngủ say, và bất tỉnh.

 

Khi lên Hoan-hỉ địa,

Bồ-tát chỉ đoạn trừ

phân-biệt ngã pháp chấp;

nhưng câu-sinh vẫn còn.

 

Bước lên Bất-động địa,

Ý thức thuần vô lậu,

thành trí “Diệu-quán-sát”,

sáng soi cõi đại-thiên.

 

4b. NĂM THỨC TRƯỚC (tiền ngũ thức)

 

Nhãn, Nhĩ, Tị, Thiệt, Thân,

gọi chung “năm thức trước”,

cũng gọi “năm thức thân”,

năm thức cảm giác.

 

Do năm căn phù-trần

đối trước năm trần cảnh,

chủng tử từ Tàng thức

nương nơi tịnh-sắc-căn

phát hiện ra năm thức;

hoặc chung, hoặc không chung.

Người thường khó phân biệt

thứccăn khác nhau.

 

Khi hoạt động độc lập:

hiện lượng; duyên tánh cảnh;

đầy đủ cả ba tánh;

năm tâm sở biến-hành.

 

Thời thường hoạt động chung

cùng ý thức ngũ-câu:

về lượng, cũng như cảnh,

đều tùy thuộc Ý thức;

 

ba mươi bốn tâm sở:

biến-hành, biệt-cảnh, thiện,

hai trung, tám đại-tùy,

cùng với tham, sân, si.

 

Nhãn thức chín duyên sinh;

Nhĩ thức tám duyên sinh;

Tị, Thiệt và Thân thức

chỉ cần bảy duyên sinh.

 

Nhãn, Nhĩ, Tị, Thiệt, Thân:

hai trước căn cảnh lìa,

ba sau căn cảnh hợp,

để nhận rõ trần thế.

 

Ngũ-thú-tạp-cư địa:

đủ năm thức hiện hành;

Sơ-thiền: Nhãn, Nhĩ, Thân;

từ Nhị-thiền: không hiện.

 

Khi được trí Hậu-đắc,

năm thức duyên chân như

qua thế giới hiện tượng,

nhận rõ sanh, pháp không.

 

Trí Đại-viên phát sinh,

năm thức thuần vô lậu,

chuyển trí “Thành-sở-tác”,

độ sinh thoát khổ luân.

 

5. DUY THỨC

 

Các thức ấy chuyển biến,

phân biệt (kiến phần),

bị phân biệt (tướng phần),

đó là Ngã và Pháp.

 

Ngã và Pháp nếu lìa

sự biến hiện của thức,

thì đều không hiện hữu;

nên tất cả là THỨC.

 

Do thức Nhất-thiết-chủng

hằng chuyển biến trùng trùng,

nhờ năng lực triển chuyển,

mọi thứ phân biệt sinh.

 

Do tập khí các nghiệp,

tập khí hai thủ,

dị thục trước vừa hết,

liền sinh dị thục sau.

 

6. BA TỰ TÁNH và BA VÔ TÁNH của VẠN PHÁP

 

Do tánh biến-kế-chấp

biến kế tất cả vật,

“biến-kế-sở-chấp” này,

vốn không có tự tánh.

 

Vạn pháp đều nương nhau,

phát sinh và hiện hữu;

nên tự tánh của chúng

gọi là: “y-tha-khởi”.

 

Do quán chiếu thấy rõ

vạn pháp “y tha khởi”,

xa lìa tánh biến kế,

hiện tánh “viên-thành-thật”.

 

Tự tánh viên-thành-thật

cùng tánh y-tha-khởi

không khác, không không khác;

cả hai không tách rời.

 

Không thấy tánh vô-thường,

không đạt cảnh niết-bàn;

không thấy tánh y-tha,

không đạt viên-thành-thật.

 

Từ ba tự-tánh này

lập nên ba “vô-tánh”;

mật ý Phật dạy rằng:

vạn pháp không tự tánh.

 

Trước hết “tướng vô tánh”:

Tướng biến-kế-sở-chấp

hư vọng không thật có,

nên không có tự tánh.

 

Kế, “vô tự nhiên tánh”:

Các pháp do duyên sinh,

không phải tự nhiên có,

nên không có tự tánh.

 

Sau, “thắng-nghĩa vô tánh”:

Do lìa biến-kế chấp,

viên-thành-thật hiện tiền,

nên không có tự tánh.

 

Thắng nghĩa của vạn pháp

cũng tức là Chân-như,

(tánh nó là như thế),

tức Thật tánh Duy-thức.

 

7. NĂM ĐỊA VỊ TU CHỨNG

 

Khi phát tâm bồ đề,

nhưng còn chưa an trú

trong thể tánh Duy-thức,

thuộc địa vị Tư-lương;

kiến chấp Ngã và Pháp

tạm ngưng trên Ý thức,

còn tùy-miên của chúng

chưa điều phục diệt trừ.

 

Do tu duy-thức-quán,

vừa an trụ phần nhỏ

trong thể tánh Duy-thức,

đó là Gia-hạnh vị;

nhưng vì thấy “có trụ”

(tức thấy có “sở đắc”),

nên chưa thật an trụ

trong thể tánh Duy-thức.

 

Khi đối cảnh sở-duyên,

trí không thấy sở đắc,

đã dứt trừ hai thủ

(ngã chấppháp chấp),

địa vị Thông-đạt;

năng, sở như huyễn hóa,

bấy giờ mới thực sự

an trụ Duy-thức tánh.

 

Cảnh giới “vô-sở-đắc”

thật không thể nghĩ bàn,

là trí xuất-thế-gian

(tức trí vô-phân-biệt).

Đó là Tu-tập vị,

dứt sạch sở-tri chướng,

tuyệt trừ phiền-não chướng,

thành tựu quả Chuyển-y.

 

Đây cảnh giới Vô-lậu,

địa vị Cứu-cánh,

cảnh giới không nghĩ bàn,

cảnh giới cực thuần thiện,

cõi thanh tịnh chân thường,

an lạc, giải thoát thân,

đại tịch mặc, pháp thân,

vô thượng chánh đẳng giác.

 

 

HẠNH CƠ

Miền Tây Gia-nã-đại, 2010

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26223)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27515)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27903)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26702)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31221)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20260)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22915)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30039)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21570)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20237)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22656)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20745)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30304)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28786)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34721)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44218)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35510)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22533)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21372)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20682)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24751)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37914)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19030)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19320)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21812)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20869)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29519)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35115)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28814)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32600)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26221)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28930)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43139)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34947)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43916)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37883)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21325)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43024)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49005)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39834)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53777)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36822)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40808)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49730)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47306)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27694)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27025)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27233)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24070)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20844)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34311)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22465)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25118)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25844)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22947)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22472)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21745)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23318)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21181)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 29881)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant