Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Mười Thiện Nghiệp

25 Tháng Năm 201411:07(Xem: 13309)
Kinh Mười Thiện Nghiệp


KINH MƯỜI THIỆN NGHIỆP

 

Hòa Thượng Thích Trí Quang dịch

 blank

Tôi nghe như vầy.

 

Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.

 

Lúc ấy Đức Thế Tôn nói với chúa tể Đại dương, rằng hết thảy chúng sinh do tâm tư tưởng khác nhau nên tạo nghiệp khác nhau, vì vậy mà có sự luân chuyển trong mọi nẻo đường.

 

Chúa tể Đại dương, ông thấy chăng bao nhiêu thân hình màu sắc và chủng loại khác nhau trong đại hội và trong biển cả này? Mọi sự khác nhau như vậy toàn do tâm tạo ra thân nghiệp khẩu nghiệp ý nghiệp hoặc lành hoặc dữ mà thành ra.

 

Nhưng tâm thì không có hình sắc để có thể nhận thấy. Nó chỉ do các pháp không thật tập hợp lạiphát khởi ra, hoàn toàn không có chủ thể: không phải bản ngãsở hữu của bản ngã. Dẫu rằng tùy nghiệp mà biểu hiện khác nhau, nhưng thật sự trong đó không có cái chủ thể tạo tác. Do vậy, các pháp toàn là không thể tư duy mô tả, thực chất giống như huyễn ảo. Người có trí tuệ biết như vậy thì hãy tu tập thiện nghiệpTừ thiện nghiệp này mà có ra thân thể thì toàn bộ đẹp đẽ, ai nhìn cũng không chán.

 

Chúa tể Đại dương, ông hãy nhìn thân thể của Như LaiThân thể này do hàng trăm hàng ngàn hàng ức thiện nghiệp sinh ra, nên tướng hảo trang nghiêm, ánh sáng rực rỡ, khuất mờ cả đại hội, đến nỗi ánh sáng của vô số Đại tự tại và Đại phạn vương cũng không rõ ra được. Ai chiêm ngưỡng thân thể ấy của Như Lai cũng đều lóa mắt. Ông lại nhìn hình sắc trang nghiêmtrong sáng của các vị đại sĩ. Tất cả toàn do tu tập thiện nghiệp mà có. Rồi kia nữa, những vị uy thế lớn lao của tám bộ loại cũng do thiện nghiệp mà ra. [Ông lại quan sát] thân hìnhsắc tướng xấu xí, lớn có nhỏ có, của bao loại chúng sinh trong đại dương này, toàn do đủ loại tư tuởng của tâm họ làm ra các ác nghiệp nơi thân miệng ý, tùy ác nghiệp ấy mà ai cũng tự nhận lấy kết quả.

 

[Quan sát thấy như thế rồi], ông nên tu học [nguyên lý nhân quả] như vậy, lại làm cho chúng sinh cũng thấu triệt nguyên lý nhân quả ấy, cùng nhau tu tập thiện nghiệp. Đối với nguyên lý nhân quả, ông hãy có quan điểm chính xác, không hề dao động - không rơi vào loại quan điểm mất hẳn hay rơi vào loại quan điểm thường còn. Nên đối với các ruộng phước, các người cũng biết vui vẻ tôn kính, cung phụng, và do vậy mà các người cũng sẽ được nhân loạichư thiên tôn kính, cung phụng.

 

Chúa tể Đại Dương, [do những điều Như Lai đã nói trên đây mà] ông nên biết bồ tát có một cách có năng lực cắt đứt mọi khổ não trong các đường dữ. Một cách ấy là gì, là ngày đêm thường xuyên nhớ nghĩ và chiêm nghiệm về thiện nghiệp, làm cho thiện nghiệp tăng lên trong mỗi ý nghĩ, không cho tơ tóc ác nghiệp nào xen vào. Như vậy là có năng lực làm cho ác nghiệp đứt hẳn, thiện nghiệp tròn đầy, thường được thân gần các đức Phật đà, các vị bồ tát, các bậc thánh giả.

 

Nhưng thiện nghiệp [là gì,] là cái mà thân thể nhân loạithân thể chư thiên, tuệ giác thanh văn, tuệ giác độc giáctuệ giác Phật đà, tất cả đều do cái ấy làm căn bản mà được thành tựu, nên gọi cái ấy là thiện nghiệpThiện nghiệp này chính là mười thiện nghiệp. Mười thiện nghiệp là những gì, là [thân thì] từ bỏ vĩnh viễn sự làm sát sinh, sự làm trộm cướp và sự làm tà hạnh; [miệng thì từ bỏ vĩnh viễn] sự nói dối trá, sự nói ly gián, sự nói thô ác và sự nói thêu dệt; [ý thì từ bỏ vĩnh viễn] sự nghĩ tham dục, sự nghĩ giận dữ và sự nghĩ tà kiến.

 

Chúa tể Đại dương, từ bỏ sự làm sát sinh thì thực hiện mười sự hết bất an. Mười sự ấy là gì? Một là ban cho các loại chúng sinh sự không sợ hãi. Hai là thường sinh tâm từ bi rộng lớn đối với các loại chúng sinh. Ba là cắt đứt vĩnh viễn mọi thói quen giận dữ. Bốn là cơ thể thường không bệnh tật. Năm là sống lâu. Sáu là thường được sự giữ gìn của những kẻ không phải loài người. Bảy là thường không ác mộng, ngủ hay thức đều yên vui. Tám là hết cả mọi sự thù oán, thù oán tự giải tỏa. Chín là không có sự sợ hãi về đường dữ. Mười là sinh mạng kết thúc thì sinh lên chư thiên. Đó là mười sự [(hết bất an]. Nếu biết [đem sự từ bỏ làm sát sinh và mười sự hết bất an] hồi hướng về tuệ giác vô thượng thì về sau, khi thành Phật, sẽ được "sự sống lâu tự do theo ý muốn" của Phật.

 

Chúa tể Đại dương, từ bỏ sự làm trộm cướp thì thực hiện mười sự đáng tin cậy. Mười sự ấy là gì? Một là tài sản dồn đầy, vua xấu, giặc cướp, nước lớn, lửa dữ và con hư không thể hủy diệt. Hai là lắm người thương mến. Ba là không ai lừa gạt. Bốn là chỗ nào cũng tán dương. Năm là không sợ tổn hại. Sáu là tiếng tốt lan tràn. Bảy là ở giữa công chúng không hề khiếp sợ. Tám là tài sản, sống lâu, tướng tốt, sức khỏe, yên vui và hùng biện đều toàn hảo, không khiếm khuyết. Chín là thường sẵn lòng cho người. Mười là sinh mạng kết thúc thì sinh lên chư thiên. Đó là mười sự [đáng tin cậy]. Nếu biết [đem sự từ bỏ làm trộm cướp và mười sự đáng tin cậy] hồi hướng về tuệ giác vô thượng thì về sau, khi thành Phật, sẽ được "tuệ giác vĩ đại và trong sáng" [của Phật].

 

Chúa tể Đại dương, từ bỏ sự làm tà hạnh thì thực hiện bốn sự người trí khen. Bốn sự ấy là gì? Một là các giác quan thuần hóa. Hai là rời hẳn sự náo động. Ba là đời ai cũng ca tụng. Bốn là vợ [chồng] không thể bị xâm phạm. Đó là bốn sự [người trí khen]. Nếu biết [đem sự từ bỏ làm tà hạnh và bốn sự người trí khen] hồi hướng về tuệ giác vô thượng thì về sau, khi thành Phật, sẽ được "cái tướng đại trượng phu nam căn ẩn mật" của Phật.

 

Chúa tể Đại dương, từ bỏ sự nói dối trá thì thực hiện tám sự chư thiên khen. Tám sự ấy là gì? Một là miệng thường sạch sẽ với mùi thơm của hoa sen. Hai là được người đời tin phục. Ba là nói là có chứng cứ, nhân loạichư thiên đều kính mến. Bốn là thường đem lời tiếng khả ái mà an ủi mọi người. Năm là được ý thích siêu việt, thân miệng ý đều trong sáng. Sáu là nói thì không lầm lỡ, lòng thường vui vẻ. Bảy là nói năng trang trọng, nhân loạichư thiên đều phụng hành. Tám là trí tuệ siêu việt, không ai chế ngự được. Đó là tám sự [chư thiên khen]. Nếu biết [đem sự từ bỏ nói dối trá và tám sự chư thiên khen] hồi hướng về tuệ giác vô thượng thì về sau, khi thành Phật, sẽ được "lời nói chân thận" của Phật.

 

Chúa tể đại dương, từ bỏ sự nói ly gián thì thực hiện năm sự không thể hỏng. Năm sự ấy là gì? Một là được thân thể không thể hỏng, vì sự không ai hại được. Hai là được thân thuộc không thể hỏng, vì không ai phá được. Ba là được tín tâm không thể hỏng, vì thuận với thiện nghiệp cũ. Bốn là được pháp hạnh không thể hỏng, vì sự tu vững chắc. Năm là được thiện hữu không thể hỏng, vì không hề lừa dối. Đó là năm sự [không thể hỏng]. Nếu biết [đem sự từ bỏ nói ly gián và năm sự không thể hỏng] hồi hướng về tuệ giác vô thượng thì về sau, khi thành Phật, sẽ được "thân thuộc chánh tánh, ma quân ngoại đạo không thể làm cho nát rã" [của Phật].

 

Chúa tể Đại dương, từ bỏ sự nói thô ác thì thực hiện tám sự nói trong sáng. Tám sự ấy là gì? Một là nói chừng mực. Hai là nói hữu ích. Ba là nói hợp lý. Bốn là nói hay ho. Năm là nói thì tiếp nhận được. Sáu là nói thì được tin theo. Bảy là nói không chê được. Tám là nói ai cũng thích. Đó là tám sự [nói trong sáng]. Nếu biết [đem sự từ bỏ nói thô ác và tám sự nói trong sáng] hồi hướng về tuệ giác vô thượng thì về sau, khi thành Phật, sẽ được toàn hảo "âm thanh Phạn thiên" của Phật.

 

Chúa tể Đại dương, từ bỏ sự nói thêu dệt thì thực hiện ba sự rất quyết định. Ba sự ấy là gì? Một là quyết định được sự thương mến của người có trí. Hai là quyết định có thể đem trí tuệgiải đáp đúng như sự thật về mọi câu hỏi. Ba là quyết định uy đức hơn hết đối với nhân loạichư thiên, không có giả tạo. Đó là ba sự [rất quyết định]. Nếu biết [đem sự từ bỏ nói thêu dệt và ba sự rất quyết định] hồi hướng về tuệ giác vô thượng thì về sau, khi thành Phật, sẽ được "sự thọ ký toàn không vô hiệu" của Phật.

 

Chúa tể Đại dương, từ bỏ sự nghĩ tham dục thì thực hiện năm sự rất tự do. Năm sự ấy là gì? Một là thân miệng ý tự do, vì các quan năng đủ cả. Hai là tài sản tự do, vì những kẻ oán thù không thể chiếm đoạt. Ba là phước đức tự do, vì tùy ý muốn gì thì tài vật cũng có đủ cả. Bốn là ngôi vua tự do, vì những vật quý, lạ và đẹp, đều được phụng hiến. Năm là tài vật có được hơn cả trăm lần mong ước, vì xưa kia đã không keo lẫn. Đó là năm sự [rất tự do]. Nếu biết [đem sự từ bỏ nghĩ tham dục và năm sự rất tự do] hồi hướng về tuệ giác vô thượng thì về sau, khi thành Phật, sẽ được "sự cao nhất ba cõi, ai cũng tôn kính hiến cúng" [của Phật].

 

Chúa tể Đại dương, từ bỏ sự nghĩ giận dữ thì thực hiện tám sự làm đẹp dạ. Tám sự ấy là gì? Một là không có tính làm hại. Hai là không tính giận dữ. Ba là không có tính kiện cáo. Bốn là được tính ôn hòa chất trực. Năm là được tính từ bi của các bậc hiền thánh. Sáu là được tính thường đem lại lợi ích và yên vui cho chúng sinh. Bảy là thân hìnhsắc tướng đều đẹp đẽ, trang nghiêm, mọi người ai cũng tôn kính. Tám là vì từ hòa ẩn nhẫn nên mau chóng sinh lên thế giới Phạn thiên. Đó là tám sự [làm đẹp dạ]. Nếu biết [đem sự từ bỏ nghĩ giận dữ và tám sự làm đẹp dạ] hồi hướng về tuệ giác vô thượng thì về sau, khi thành Phật, sẽ được "cái tâm không chướng ngại nên ai nhìn cũng không chán" [của Phật].

 

Chúa tể Đại dương, từ bỏ sự nghĩ tà kiến thì thực hiện mười sự thành quả tốt. Mười sự ấy là gì? Một là được ý thích chân thiện, đồng bạn chân thiện. Hai là tin tưởng sâu xa vào nhân quả, nên thà chết chứ không làm ác nghiệp. Ba là chỉ quy y Phật, không theo vị trời nào khác hay những vị đồng đẳng với vị trời ấy. Bốn là tâm lý ngay thẳng, quan điểm chính xác, rời hẳn tất cả mạng lưới thắc mắc về lý số tốt xấu. Năm là thường sinh trong nhân loạichư thiên, không còn trở lại đường dữ. Sáu là vô lượng phước đứctuệ giác dần dần thêm và hơn lên. Bảy là vĩnh viễn tách rời đường đi tà ngụy, chỉ đi theo đường đi thánh chánh. Tám là không nổi dậy sự thân kiến, xả bỏ các thứ ác nghiệp. Chín là đứng vững trong sự thấy biết không chướng ngại. Mười là không rơi vào các tai nạn. Đó là mười sự [thành quả tốt]. Nếu biết [đem sự từ bỏ nghĩ tà kiến và mười sự thành quả tốt] hồi hướng về tuệ giác vô thượng thì về sau, khi thành Phật, sẽ được "mau chóng thực hiện tất cả thành quả của Phật", [trong đó có sự] hoàn thành thần thông tư tại [của Ngài].

 

Bấy giờ Đức Thế Tôn lại dạy chúa tể Đại dương, rằng vị bồ tát nào y theo mười thiện nghiệp này, khi hành bồ tát hạnh, có thể từ bỏ sự làm sát sinhbố thí, thì thường giàu tài sản bảo vật mà không ai chiếm đoạt được, sống lâu chứ không chết yểu, không bị những kẻ oán thù làm cho thương tổn tai hạiTừ bỏ sự làm trộm cướp mà bố thí, thì thường giàu tài sản bảo vật mà không ai chiếm đoạt được, hơn hết tất cả, không ai sánh bằng, đủ mọi năng lực tập họp đầy đủ kho tàng chánh pháp của chư Phật. Từ bỏ sự làm tà hạnhbố thí, thì thường giàu tài sản bảo vật mà không ai chiếm đoạt được, gia đình trinh bạch, thuận hòa, [cha] mẹ, vợ [chồng] và con cái, không ai có thể nhìn họ bằng tâm lý dâm dục. Từ bỏ sự nói dối trá mà bố thí, thì thường giàu tài sản bảo vật mà không ai chiếm đoạt được, không bị mọi sự phỉ báng, chấp trì chánh pháp, làm gì cũng chắc chắn hiệu quả y như nguyện ước. Từ bỏ sự nói ly giánbố thí, thì thường giàu tài sản bảo vật mà không ai chiếm đoạt được, thân thuộc hòa thuận, ý thích đồng nhất, không bao giờ mâu thuẩn tương tranh. Từ bỏ sự nói thô ác mà bố thì, thì thường giàu tài sản bảo vật mà không ai chiếm đoạt được, tập thể nào cũng vui vẻ quy ngưỡng, nói ra điều gì cũng được tin tưởng, tiếp nhận, không ai chống cự. Từ bỏ sự nói thêu dệt mà bố thì, thì thường giàu tài sản bảo vật mà không ai chiếm đoạt được, nói không uổng lời, ai cũng kính trọng tiếp nhận, có thể tài tình cắt đứt mọi sự nghi hoặcTừ bỏ sự nghĩ tham dụcbố thí, thì thường giàu tài sản bảo vật mà không ai chiếm đoạt được, có gì cũng đem biếu tặng, tin hiểu vững chắc, có đại uy lựcTừ bỏ sự nghĩ giận dữbố thí, thì thường giàu tài sản bảo vật mà không ai chiếm đoạt được, mau chóng tự thành tâm trí không chướng ngại, mọi bộ phận thân thể đều trang nghiêm, tốt đẹp, ai thấy cũng kính cũng mến. Từ bỏ sự nghĩ tà kiếnbố thí, thì thường giàu tài sản bảo vật mà không ai chiếm đoạt được, thường xuyên sinh vào gia đình chánh kiếnchánh tín, gặp Phật nghe Pháp cúng Tăng, không bao giờ quên mất tâm nguyện mong cầu đại bồ đề. Như thế đó là những sự lợi ích lớn lao mà bồ tát đạt được khi hành bồ tát hạnh, làm mười thiện nghiệptrang hoàng bằng thí độ. Ấy vậy, chúa tể Đại dương lấy phần chính yếu mà nói, làm mười thiện nghiệptrang hoàng bằng giới độ thì có năng lực phát sinh tất cả lợi ích chân thật trong Phật Pháp, đầy đủ chí nguyện vĩ đại; mà trang hoàng bằng nhẫn độ thì được ngữ âm toàn hảo của Phật, lại đủ mọi tướng tốt, vẻ đẹp; mà trang hoàng bằng tiến độ thì có năng lực hủy diệt sự thù nghịch của ma quân, nhập vào kho tàng chánh pháp của Phật; mà trang hoàng bằng định độ thì phát sinh được niệm, tuệ, tàm quí, khinh an; mà trang hoàng tuệ độ thì hủy diệt được mọi thứ quan điểm sai lầm của sự phân biệt.

 

[Lại nữa, cũng lấy phần chính yếu mà nói, làm mười thiện nghiệp] mà trang hoàng bằng từ vô lượng tâm, thì đối với chúng sinh không hề nổi dậy mọi sự quấy rối, tác hại; mà trang hoàng bằng bi vô lượng tâm thì thương xót chúng sinh đến nỗi không bao giờ chán họ, bỏ họ; mà trang hoàng bằng hỷ vô lượng tâm thì thấy ai có thiện nghiệp lòng mình không ghét không ganh; mà trang hoàng bằng xả vô lượng tâm, thì đối với cảnh ngộ thuận lòng hay cảnh ngộ trái ý không có tâm lý ưa thích hay tâm lý tức bực. [Làm mười thiện nghiệp] mà trang hoàng bằng bốn nhiếp pháp, thì thường xuyên cần cù giáo hóa hết thảy chúng sinh. [Làm mười thiện nghiệp] mà trang hoàng bằng bốn niệm xứ thì khéo léo thực tập sự quán sát theo bốn niệm xứ ấy; mà trang hoàng bằng bốn chánh cần thì diệt trừ được hết mọi thứ ác nghiệp, làm thành được hết mọi thứ thiện nghiệp; mà trang hoàng bằng bốn thần túc thì làm cho cơ thể và tâm thần luôn luôn thư thái, thích thú; mà trang hoàng bằng năm căn thì thâm tín vững chắc, siêng năng thuần túy, không xen biếng nhác, không có lúc nào mê mờ, vọng động, tĩnh lặng thuần hóa, cắt đứt mọi sự phiền não; mà trang hoàng bằng năm lực thì mọi thứ thù nghịch diệt hết, không ai có thể phá hoại; mà trang hoàng bằng bảy giác chi thì thường khéo giác ngộ tất cả các pháp; mà trang hoàng bằng tám chánh đạo thì trí tuệ chính xác hiển hiện thường xuyên như ở trước mắt. [Làm mười thiện nghiệp] mà trang hoàng bằng sự Chỉ thì có năng lực trừ khử mọi thứ kiết sử; mà trang hoàng bằng sự Quán thì có năng lực biết một cách đúng như sự thật về thực chất của các pháp. [Làm mười thiện nghiệp] mà trang hoàng bằng phương tiện thì mau chóng hoàn thành đầy đủ cái vui hữu vi và cái vui vô vi.

 

Chúa tể Đại dương, ông nên biết mười thiện nghiệp này đến nỗi có năng lực làm cho mười đại năng lực, bốn sự không sợ, mười tám sự đặc biệt, tất cả thành quả của Phật [mà đại loại là như vậy], đều được hoàn thành đầy đủ. Do vậy, các người phải siêng năng mà tu học [mười thiện nghiệp ấy].

 

Chúa tể Đại dương, tất cả thành thị làng xóm đều nương tựa địa cầu mà đứng vững, tất cả cây cỏ rừng rú cũng nương tựa điạ cầu mà sinh trưởng. Mười thiện nghiệp cũng là như vậy, tất cả thân thể của nhân loạithân thể của chư thiên đều do mười thiện nghiệp mà đứng vững, tất cả tuệ giác của thanh văn, tuệ giác của độc giác, hạnh nguyện của bồ tát, tất cả thành quả của Phật đà, toàn do địa cầu mười thiện nghiệp mà được hoàn thành.

 

Đức Thế Tôn tuyên thuyết kinh này hoàn tất thì chúa tể Đại dương, và cả đại hội bao gồm chư thiên, tu la, và các chúng đồng đẳng, thuộc phạm vi thế gian, ai cũng đại hoan hỷ, tin tưởng, tiếp nhậnphụng hành.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23958)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41216)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19691)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23980)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21746)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23301)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27503)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26569)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29316)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33189)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20190)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25768)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20912)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31317)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38570)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21436)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44252)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29824)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42193)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22138)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45751)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32108)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23952)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24387)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29268)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33914)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27679)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32131)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21062)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28848)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21577)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28063)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22073)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21431)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19496)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19470)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19835)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19240)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29175)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20615)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28285)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23650)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33180)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31841)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21373)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39623)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21546)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19373)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26392)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24817)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21755)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22383)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29127)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22553)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23516)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21235)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35317)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24545)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31340)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant