Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Dhammika Sutta (An An 6.54 – Pts: {A Iii 364})

23 Tháng Ba 201513:04(Xem: 11061)
Kinh Dhammika Sutta (An An 6.54 – Pts: {A Iii 364})
Kinh DHAMMIKA SUTTA (AN VI.54)

Tỳ Kheo Ni Giải Nghiêm dịch từ bản Pali-English của Andrew Olendzki


Kinh Dhammika SuttaThuở xưa[1] khi các người đi buôn bằng đường biển dong thuyền ra biển, họ mang theo một con chim để nhắm hướng đất liền. Khi thuyền ở chỗ không thấy đất liền, họ thả con chim ra; con chim bay về các hướng đông, tây, nam, bắc, trên, dưới và xung quanh. Và nếu không thấy đất liền, con chim bay trở lại tàu; còn nếu thấy đất liền gần đó, nó sẽ đi luôn thật. [2]

...

Ngày xưa[3] có một cây vả chúa tên là Kiên Định, thuộc về vua Koravya; cây có năm cành rộng cho bóng mát rất dễ chịu. Tàng cây toả rộng cả trăm dặm, rễ lan ra chừng bốn mươi dặm. Quả của cây này rất tuyệt: lớn như cái thúng - mọng ngon như vậy – và trong như mật ong.

Vua và các cung nữ hưởng một phần; quân đội hưởng một phần; dân trong thành và trong thôn làng hưởng một phần; các bà la mônnhà tu khổ hạnh hưởng một phần; chim và thú hưởng một phần. Không ai canh giữ quả của cây vả này cả, và cũng không ai hãm hại lẫn nhau vì quả của cây này.

Nhưng có một người kia đi đến, ăn quả của cây Kiên Định cho bằng thích, bẻ gãy cành rồi bỏ đi. Vị thiên nữ trú nơi cây Kiên Định thầm nghĩ: “Thật kinh khủng, thật lạ lùng, có kẻ lại xấu xa cho đến nổi dám ăn quả cây Kiên Định cho bằng thích, bẻ gãy cành rồi bỏ đi! Vậy để cây Kiên Định không còn ra quả nữa xem sao cho biết?” Và cây vả Kiên Định không còn ra quả nữa.

Thế rồi vua Koravya đến chỗ Thiên Chủ Đế Thích (Sakka), gặp ngài và nói: “Chắc Ngài đã biết rồi, Kiên Định - cây vả chúa - không còn ra trái nữa?” Đế Thích bèn hoá hiện làm như có một trận mưa to gió lớn ập xuống, làm cây vả chúa Kiên Định ngả xuống, trốc gốc hoàn toàn. Vị thiên trú nơi cây Kiên Định buồn rầu, khóc lóc, đứng khóc một bên cây, nước mắt đầm đìa.

Thiên Chủ Đế Thích đi đến chỗ vị thiên đang đứng, đến đó rồi nói rằng: “Này thiên nữ, cớ sao mà bà lại buồn rầu, khóc lóc, đứng một bên cây nước mắt đầm đìa?”

“Thưa Ngài, đó là vì một trận mưa to gió lớn vừa ập xuống, làm chỗ ở của tôi bị ngả xuống, trốc gốc hoàn toàn.”

“Này thiên nữ, có phải bà đang trì Pháp của loài cây khi việc này xảy ra không?”

“Nhưng thưa Ngài, thế nào là một cái cây trì Pháp của loài cây?”

“Như thế này, thiên nữ: những người cắt rễ lấy rễ cây; những người lột vỏ cây lấy vỏ; những người hái lá lấy lá; những người hái hoa lấy hoa; những người hái trái lấy trái – không một điều nào đủ là cái cớ để cho một vị thiên chỉ nghĩ đến mình hay rầu rĩ cả. Này thiên nữ, một cái cây trì Pháp của loài cây là như vậy.”

“Vậy thì thưa Ngài, con không đang trì Pháp của loài cây khi mưa to gió lớn ập xuống, làm chỗ ở của tôi bị ngả xuống, trốc gốc hoàn toàn.”

“Nếu như vậy thì, thiên nữ, nếu như bà trì Pháp của loài cây, chỗ ở của bà có thể sẽ hoàn nguyên như cũ.”

“Thưa Ngài, tôi sẽ xin trì Pháp của loài cây! Mong trú xứ của tôi được hoàn nguyên như cũ.”

Khi ấy, Thiên Chủ Đế Thích hoá hiện làm như có một trận mưa to gió lớn ập xuống, nâng cây vả chúa Kiên Định dậy, rễ cây lành lặn hoàn toàn.

...


Chú thích của Andrew Olendzki:

[1] Đoạn này cũng có trong DN 11. - Ed

[2] Từ Pali ở đây là tathagatako (E.M. Hare dịch trong bản dịch của PTS là "gone for good"; Andrew Olendzki dich là “truly gone”,) câu chuyện này giúp chúng ta hiểu thêm rất nhiều vì sau Đức Phật lại dùng danh hiệu “Tathagata” để tự xưng.

Tên của Ngài là Siddhattha; là một sa môn khổ hạnh Ngài lấy tên của tộc họ bên thân mẫu của Ngài là Gotama; Ngài được người đương thời biết đến như một bậc hiền trí dưới tên của tộc họ của thân phụ ngài, Sakyamuni; và khi giác ngộ, ngài được gọi là Buddha, Bậc Giác Ngộ. Những người theo ngài thường gọi Ngài là Bhagavant, hay “Thế Tôn,” nhưng tên mà ngài luôn dùng để tự xưng lại là Tathagata (Việt dịch là Như Lai.)

Tathagata là một từ khó dịch ra tiếng Anh. Tatha nghĩa là ‘như vậy,’ (so, thus, in this way); và gata là động tính từ của động từ đi, và có nghĩa là “đã đi rồi”, “khứ” (gone.) Chúng ta thường thấy từ này được dịch ra tiếng Anh là “Thus-gone” hay “the Thus-Gone” (‘đã đi như vậy’, ‘bậc đã đi như vậy’ tức là ‘như khứ’.) Luận sư Buddhaghosa (Phật Âm) liệt kê 8 cách dịch khác nhau cho từ này (Digha Atthakatha 1.59), trong đó đưa ra những cách phân tích gốc từ rất sáng tạo.

Tôi (Andrew Olendzki) thừa nhận chưa bao giờ thật sự hiểu ý nghĩa từ Tathagata cho đến khi tôi đọc câu chuyện này. Với hình ảnh con chim được thả ra để tìm bờ bên kia, nhiều việc trở nên sáng tỏ.

Trước hết, chúng ta cần nhận ra 2 cách thành ngữ này được sử dụng: một chỉ cho đức Phật như là người không còn sinh lại nữa, và hai là diễn tả tâm thức của người đã giác ngộ vẫn còn trụ thế đối với các trần.

Có lúc một vị A La Hán qua đời, Mara – như một đám mây đen – đi tìm xem tâm thức của vị A La Hán đang tái lập (sinh) ở đâu. Trong trường hợp đó, đức Phật nói rằng tâm thức của A La Hán “không bám trụ vào đâu nữa” (ví dụ SN 22.87.) Theo ý nghĩa này, đức Phật rõ ràng dùng danh hiệu “Tathagata” với ý nghĩa ngài sẽ không còn phải sinh lại nữa – như con chim rời chiếc thuyền không còn quay trở lại, tâm thức của ngài không đậu lại bất cứ cảnh giới nào để bị ràng buộc vào một thân khác.

Nhưng cũng có một nghĩa khác, trong đó thành ngữ Tathagata diễn đạt một cách thích đáng bản chất của tâm đã giải thoát ở trong hiện đời. Khi người hỏi cố tìm cách để bắt đức Phật phải trả lời tâm thức ngài có còn sau khi chết không, ngài quở họ qua việc đáp rằng chính ngay trong đời này tâm thức của Tathagata còn không thể dò được, vì không nằm trong phạm trù đo lường thì làm sao các khái niệm còn, không còn có thể áp dụng được để đo lường tâm thức Như Lai (ví dụ SN 1074.) Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức) – như một con chim đã thoát, không còn quay trở về bám đậu vào thuyền nữa.

Chú thích của người dịch tiếng Việt: từ Như Lai dịch hay hơn là từ tiếng Anh vì, bao hàm được ý nghĩa vô thỉ vô chung (vô khư vô lai). Cách giải thích của Olendzki chỉ nói được một mặt là ‘đi hẳn, không quay trở lại’ nhưng không giải thích chữ ‘such’, ‘so’, ‘in this way’ (Như.)

[3] Đây có thể là một câu chuyện có thật – có lẽ Kiên Định là tên của cả hành tinh, không phải chỉ là một cái cây thần thoại. Làm sao chúng ta có thể giải thích khác hơn về đức nhẫn lớn lao và sự làm lợi ích không ngừng của trái đất trước sự tham lamphá hoạicon người đã làm đối với trái đất? Tôi (Olendzki) nghĩ rằng Gaia, nữ thần ngự trị trái Đất dễ thương của chúng ta đã được Sakka (Đế Thích) dạy cho bài học này từ thuở xa xưa, và với đức Đại Nhẫn đã chịu đựngtha thứ cho những điều tệ hại nhất mà chúng ta đã làm để đáp lại những ân huệ của bà. Nếu đó là sự thật, bà sẽ không báo cho chúng ta biết khi chúng ta đã đi quá xa – vì cho rằng đó là phần trách nhiệm của chúng ta.

Như mọi chuyện Phật giáo khác, truyện này mang nhiều ý nghĩa. Không phải ngẫu nhiên mà cây đại thụ này có năm nhánh, và từ dùng cho mỗi phần quả là khandha - từ dùng để chỉ cho năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức.) Người ăn thoả thích quả của mình khởi lòng tham, và sự khát khao, sự bẻ cành của người này dụ cho sân, giận và ghét bỏ. Đây là hai trong ba gốc rễ của độc từ đó mà các hành động bất thiện phát sinh (gốc độc thứ ba là si – có mặt khi tham, sân có mặt.) Do đó, toàn bộ hình ảnh này đại diện cho một người bị người khác đối xử xấu, hay phải đối diện với sự nhen nhúm của các kết sử của chính mình xúi giục mình làm hại.

Xin để ý câu truyện không dạy “người xấu ác” về sự rồ dại của mình, vì thường ta không thể làm gì để tránh những kẻ này, hay những khuynh hướng này ở trong ta. Câu truyện nhắm dạy về phản ứng của chúng ta trước những lỗi lầm. Sakkha (Đế Thích) cho rằng phản ứng nóng nảy, hờn dỗi trước sự lăng mạ là đứng ở chỗ coi mình là trung tâm điểm, và câu trả lời duy nhất thích hợp trong trường hợp này là lòng từ và sự rộng lượng - đối với mình cũng như với kẻ khác. Như Kinh Pháp Cú cũng đã dạy: “Hận thù diệt hận thù, đời này không từng có. Từ bi diệt hận thù, là định luật nghìn thù. [Dhp 5].

Bài pháp này được giảng cho Dhammika, một tì khưu than thở về cách đối xử của một số người. Đức phật soi lại tình trạng cho Dhammika, cho thấy bản thân ông không đối xử tốt với các bạn đồng tu. Đây là một dịp để đức Phật dạy cho Dhammika, bằng câu chuyện ẩn dụ, “pháp của một sa môn” được tóm tắt trong câu “không sỉ nhục lại người đã sỉ nhục mình, không giận lại người giận mình, không xúc phạm lại người đã xúc phạm mình.”

(TKN Giải Nghiêm dịch từ bản Pali-English của Andrew Olendzki. Xin chỉ dùng để phát tặng không, không bán.)
(Source: www.dieukhong.org)


Nguyên văn bản tiếng Anh:
AN 6.54 PTS: A iii 366
Dhammika Sutta:

Dhammika (excerpt) translated from the Pali by Andrew Olendzki © 2005–2012

...

In[1] ancient times when seafaring merchants put to sea in ships, they took with them a bird to sight land. When the ship was out of sight of land, they released the bird; and it flew eastward and westward, northward and southward, upward and all around. And if the bird saw no land, it returned to the ship; but if the bird sighted land nearby, it was truly gone.[2]

...

Once upon a time[3] there was a royal fig tree called Steadfast, belonging to king Koravya, whose five outstretched branches provided a cool and pleasing shade. Its girth extended a hundred miles, and its roots spread out for forty miles. And the fruits of that tree were indeed great: As large as harvest baskets — such were its succulent fruits — and as clear as the honey of bees.

One portion was enjoyed by the king, along with his household of women; one portion was enjoyed by the army; one portion was enjoyed by the people of the town and village; one portion was enjoyed by brahmans and ascetics; and one portion was enjoyed by the beasts and birds. Nobody guarded the fruits of that royal tree, and neither did anyone harm one another for the sake of its fruits.

But then a certain man came along who fed upon as much of Steadfast's fruits as he wanted, broke off a branch, and wandered on his way. And the deva who dwelled in Steadfast thought to herself: "It is astonishing, it is truly amazing, that such an evil man would dare to feed upon as much of Steadfast's fruits as he wants, break off a branch, and then wander on his way! Now, what if Steadfast were in the future to bear no more fruit?" And so the royal fig tree Steadfast bore no more fruit.

So then king Koravya went up to where Sakka, chief among the gods, was dwelling, and having approached said this: "Surely you must know, sire, that Steadfast, the royal fig tree, no longer bears fruit?" And then Sakka created a magical creation of such a form that a mighty wind and rain came down and toppled the royal fig tree Steadfast, uprooting it entirely. And then the deva who dwelled in Steadfast grieved, lamented, and stood weeping on one side with a face full of tears.

And then Sakka, chief among the gods, went up to where the deva was standing, and having approached said this: "Why is it, deva, that you grieve and lament and stand on one side with a face full of tears?" "It is because, sire, a mighty wind and rain has come and toppled my abode, uprooting it entirely."

"And were you, deva, upholding the dhamma of trees when this happened?" "But how is it, sire, that a tree upholds the dhamma of trees?"

"Like this, deva: Root-cutters take the root of the tree; bark-strippers take the bark; leaf-pickers take the leaves; flower-pickers take the flowers; fruit-pickers take the fruits — and none of this is reason enough for a deva to think only of herself or become morose. Thus it is, deva, that a tree upholds the dhamma of trees."

"Then indeed, sire, I was not upholding the dhamma of trees when the mighty wind and rain came and toppled my abode, uprooting it entirely." "If it were the case, deva, that you were to uphold the dhamma of trees, it may be that your abode might be as it was before." "I will indeed, sire, uphold the dhamma of trees! May my abode be as it was before!"

And then Sakka, chief among the gods, created a magical creation of such a form that a mighty wind and rain came down and raised up the royal fig tree Steadfast, and its roots were entirely healed.

...

Notes

1.
This passage also appears at DN 11. — Ed.
2.
The word used here for "truly gone" is tathagatako (translated by E.M. Hare in the PTS edition as "gone for good"), and this story helps us considerably in understanding how the Buddha used the epithet "Tathagata" to describe himself.

His given name was Siddhattha; as a wandering ascetic he went by his mother's clan name, Gotama; he was known throughout his world as the sage of his father's family, or Sakyamuni; and when enlightened he became known as Buddha, the Awakened One. His followers most often referred to him as Bhagavant, or "Blessed One," but the name he almost always used for himself was Tathagata.

Tathagata has always been an awkward word to translate. Tatha on its own means something like "so," "thus," or "in this way"; and gata is the past participle of the verb to go, and simply means "gone." We therefore often find the phrase translated in the texts as "Thus-gone" or "the Thus-Gone one." The commentator Buddhaghosa lists eight different ways the word can be construed (Digha Atthakatha 1.59), and in the process engages in some characteristically creative etymology.

I admit to having never really understood the import of the term Tathagata — until I came across this story. With the image of the bird released by the sailors, searching for land upon which to alight, a number of things began to fall into place.

To begin with we should recognize two ways the expression is used: one referring to the Buddha as a being who will no longer be reborn, and the other describing how the consciousness of an awakened person still in this world relates to the object of experience.

Sometimes when one of the arahants passes away, Mara like a dark cloud can be seen searching for where their consciousness has become re-established (i.e., reborn). In such cases, the Buddha says of the arahant that their consciousness is "not stationed anew anywhere" (e.g., SN 22.87). In this sense the Buddha is clearly using the epithet "Tathagata" to mean that he will not be reborn again — like the bird leaving the ship without returning, his consciousness does not alight again in any of the worlds to become re-bound with another body.

But there is also a sense in which the phrase aptly describes the nature of the awakened mind here in this life. When his questioners try to pin the Buddha down about whether his consciousness survives after death, he rebukes them by saying that even here and now the consciousness of a Tathagata is untraceable, since there is no means of measuring or knowing it (e.g., Sn 1074). The awakened mind is said to be unattached to anything in the world — like a bird that does not alight upon and thus get bound to any object of experience.

In fact learning to un-attach the mind from its fetters is a good deal of what insight meditation training is all about. The Satipatthana Sutta, for example, (the main text that gives instructions for insight meditation) states that when practicing mindfulness properly a person "abides independent, not clinging to anything in the world" (MN 10). The householder Anathapindika, just before his death, received instructions from Sariputta urging him to train himself thus: "I will not cling to what is seen, heard, sensed, cognized, encountered, sought after, and examined by the mind; my consciousness will not be dependent on any of that" (MN 143).

All this combines to suggest that a crucial aspect of the Buddha's teaching is the notion of consciousness being unattached to mental or physical objects. In moment-to-moment practice this means letting go of attachments and letting experience be simply what it is. Perhaps with proper practice we can live as a bird freely circling the ship of our body and our world, rather than as one imprisoned in a cage on its deck.

3.
Perhaps this is a true story — perhaps Steadfast is a name for the entire planet, not just a mythological tree. How else might we explain the earth's great forbearance and continued beneficence in the face of the rapacity and destruction we have wrought upon her? I think Gaia, the deity inhabiting the abode of our lovely Earth, was taught this lesson by Sakka in ancient times, and has with great patience and dignity put up with the worst we can render. If this is true, then she will not give us a sign when we have gone too far — perceiving this is our own responsibility.

Like every Buddhist story, this one works on many levels simultaneously. It is no accident that the great tree has five branches, or that the word used for each portion is khandha — the term designating the five aggregates of form, feeling, perception, formations and consciousness. The man eating his fill of fruit is manifesting greed, craving or desire, and his breaking of the branch represents hatred, anger or aversion. These are two of the three poisonous roots out of which all unwholesome action arises (the third — ignorance — is always present when others occur). Thus the entire image is representative of a person being wronged by another or facing the eruption of their own latent tendencies for harmful action.

Notice that the story does not teach the "evil man" the folly of his ways, since there is often nothing one can do to avoid such people or such inclinations in oneself. The teaching is more about our response to transgression. Sakka's point is that it is self-centered to react petulantly to such an affront, and that the only suitable response is with kindness and generosity — to oneself as well as to others. As the Dhammapada so aptly says, "Never at any time in this world are hostilities resolved by hostility; but by kindness they are resolved — this is an eternal truth" [Dhp 5].

This teaching is given to Dhammika, a monk who complains of his treatment by certain laypeople. The Buddha reflects the situation back upon Dhammika, who as it turns out does not treat his fellow monks very well. It is an occasion to teach Dhammika, with the help of this story, the "dhamma of a recluse," which boils down to "not returning the insult of the insulter, the anger of the angry or the abuse of the abuser."








Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27153)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21756)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22224)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23599)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20410)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24736)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18975)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24720)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30962)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23971)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27756)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26501)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21293)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23205)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38107)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18798)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18424)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19943)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19027)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23136)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23863)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22780)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22898)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29558)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20629)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18706)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15841)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18834)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19640)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20144)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19945)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18110)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22913)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34156)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16406)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16913)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39205)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26041)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20086)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18833)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24047)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29098)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22897)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30926)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20997)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26840)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20662)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26238)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23315)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19814)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24659)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30007)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20208)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20399)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15135)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15822)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23860)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19834)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant