KINH AN TRÚTHANH TỊNH TRONG THỜI GIAN ĐI KHẤT THỰC
(Thanh TịnhKhất Thực Trú Kinh, Tạp A Hàm kinh 236) Thích Đức Thắng dịch
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, vào buổi sáng sớm, Tôn giả Xá-lợi-phất đắp y mang bát vào thành Xá-vệ khất thực. Khất thực xong trở vềtinh xá, cất y bát, rửa chân xong; cầm tọa cụ vào trong rừng, tọa thiền nghỉ trưa. Sau khi tọa thiền xong, Tôn giả Xá-lợi-phất đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi lui qua một bên. Bấy giờ, Đức Phật hỏi Xá-lợi-phất:
“Ngươi từ đâu lại?”
Xá-lợi-phất đáp:
“Bạch Thế Tôn, con từ chỗ tọa thiền nghỉ trưa ở trong rừng lại.”
Phật hỏi Xá-lợi-phất:
“Hôm nay ngươi nhập vào thiền nào mà an trú?”
Xá-lợi-phất bạch Phật:
“Hôm nay con ở trong rừng, nhập an trụ thiền Không tam-muội[22].”
Phật bảo Xá-lợi-phất:
“Lành thay! Lành thay! Xá-lợi-phất, hôm nay ngươi đã nhập thiền trú bậc thượng tọa mà tọa thiền[23]. Nếu các Tỳ-kheo nào, muốn nhập thiền thượng tọa, thì phải học như vầy:
“Khi vào thành, khi đi khất thực, hoặc lúc ra khỏi thành, thì phải tư duy như thế này: ‘Hôm nay mắt ta thấy sắc, có khởi lên dục, ân ái, ái lạc, niệm tưởng, đắm nhiễm không?’ Này Xá-lợi-phất, Tỳ-kheo quán sát như vậy, nếu nhãn thức đối với sắc mà có ái niệm, đắm nhiễm, thì Tỳ-kheo này vì để đoạn ácbất thiện nên phải phát khởiquyết ýtinh cần, có khả năng buộc chặtý niệm để tu học. Ví như có người bị lửa đốt cháy đầu và áo, vì muốn dập tắt hết lửa, nên phải phát khởinỗ lựcquyết tâm để dập tắt lửa. Tỳ-kheo này lại cũng phải như vậy, phải phát khởiquyết ýtinh cần, buộc chặtý niệm để tu học.
“Nếu Tỳ-kheo khi quán sát, hoặc ở giữa đường, hoặc đi khất thực ở trong làng xóm, hoặc đi ra khỏi làng xóm, ngay trong lúc đó mà nhãn thức đối với sắc không có ái niệm, đắm nhiễm, thì Tỳ-kheo này ước nguyện bằng thiện cănhỷ lạc này, ngày đêm tinh cần cột niệm tu tập. Đó gọi là Tỳ-kheo đi, đứng, ngồi, nằm, với sự khất thực đã được thanh tịnh. Cho nên kinh này gọi là Thanh tịnhkhất thực trụ.”
Phật nói kinh này xong, Tôn giả Xá-lợi-phất nghe những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷphụng hành.
______________________________
BẢN DỊCH CỦA THẦY THÍCH NHẤT HẠNH
Kinh An trúThanh tịnh trong Thời gian đi khất thực
Thích Nhất Hạnh dịch
(Thanh TịnhKhất Thực Trú Kinh, Tạp A Hàm kinh 236)
Đây là những điều tôi được nghe trong thời gian Bụt ở tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc ở thành Vương Xá. Lúc bấy giờ, Tôn giả Xá Lợi Phất, vào buổi sáng khoác y, ôm bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực. Khất thực xong, thầy trở vềtinh xá, cất y bát, rửa chân xong, mang tọa cụ vào rừng, thực tậptọa thiền buổi ban ngày. Sau đó, thầy Xá Lợi Phất xuất thiền, tới chỗ Đức Thế Tôn ở, làm lễ dưới chân Bụt, rút lui và ngồi xuống một bên, phía trước Đức Thế Tôn.
Lúc bấy giờ, Bụt hỏi thầy Xá Lợi Phất: “Thầy từ đâu tới đây?”
Thầy Xá Lợi Phất đáp: “Lạy Đức Thế Tôn, con vừa mới thực tậpthiền tọa buổi ban ngày trong rừng. Thực tập xong, con tới đây.”
Bụt hỏi Thầy Xá Lợi Phất: “Trong buổi thiền tập hôm nay, thầy an trụ trong loại thiền định nào?”
Thầy Xá Lợi Phấttrả lời Bụt: “Thế Tôn, con ở trong rừng, đi vàoan trú trong pháp thiền định “không tam muội”.
Bụt bảo Thầy Xá Lợi Phất: “Hay lắm, hay lắm, Thầy Xá Lợi Phất. Đó là Thầy đang thực tập một loại thiền định cao cấp gọi là thượng tọa thiền.
“Này Xá Lợi Phất, nếu các vị tì khưu nào muốn đi vàothượng tọa thiền thì phải thực tập như sau:
“Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tậptư duy như sau: trong khi mắt tôi đang thấy sắc, thì tâm tôi có phát khởidục tưởng (vào sắc ấy) hay không? Tôi đang có bị tâm niệmân áiràng buộc hay không?
“Này Xá Lợi Phất, nếu trong khi vị khất sĩthực tậpquán niệm như thế, mà thấy trong khi mắt đối sắc có tâm niệmái nhiễm phát sinh thì vị khất sĩ ấy lập tứctìm cách đoạn trừ ngay tâm niệmái nhiễm ấy, tâm niệm không có lợi lạc cho đường tu ấy. Vị khất sĩ ấy phải có thao thức tìm ra những phương pháp có thể giúp mình nắm lấy tâm ý mà tu tập (hệ niệmtu học).
“Ví như có một người kia biết là lửa đang cháy trên chiếc khăn chít đầu của mình, liền lập tức tìm mọi cách dập tắt ngọn lửa, vị khất sĩ cũng phải làm như thế, nổ lực tìm raphương tiện để nắm lấy tâm ý mà tinh tiếntu học. Nếu vị khất sĩ đang đi trên đường, hoặc đang đi khất thực ở trong xóm làng, hoặc đang rời bỏ xóm làng mà biết phát khởichánh niệm để quan sát và nhận thấy rằng khi con mắt mình tiếp xúc với hình sắc, mà trong tâm mình không có sự nhiễm trước của ái niệm, thì vị khất sĩ này nên có ý nguyệngìn giữ gốc rễ tốt đẹp của cái niềm vui và cái hạnh phúc này để tinh cần nắm lấy tâm mình mà tu học ngày đêm. Như vậy vị khất sĩ này trong bốn tư thế đi, đứng, nằm, ngồi, thực tập được pháp tịnh hóa trong suốtthời gian đi khất thực. Ta có thể gọi kinh này là Kinh Thanh TịnhKhất Thực.”
Bụt đã nói kinh này xong. Tôn giả Xá Lợi Phấtnghe lời Bụt dạy vui mừng đem ra thực tập theo những lời ấy.
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặnggật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
Để phát TâmBồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứu và tu tập với những đạo sưTây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tậpthực tiễnhằng ngày.
Hòa ThượngTịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáothế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết học và thi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nở ở Ấn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
Các Phật tử, Bồ Tátban sơphát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báunhư ýgiá trị từ hạ trung thượng cho đếnvô giá...
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂNthuyết minh, được các Thánh giảkết tập thành Tạng Luận trong Tam tạngThánh giáo.
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộkiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bácphi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồthành tín trên đường Đạo.
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinhtriệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
Hãy nôn ra lòng sân hậnđộc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúc và an lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phậttrong suốtlịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóanhân loại, những luồng sinh khí mà đạo Phật đã thổi vào...
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
Khi chúng tahiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộvì lợi ích của tất cả chúng sinh.
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đạithịnh trịđặc biệt về mọi mặt...
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giảnbình dị của Lục Tổ.
Con ngườibình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sửtư tưởngPhật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích NữTrí Hải
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.