Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Tăng Sự Gián Nghị (Samanubhāsanā)

02 Tháng Năm 201000:00(Xem: 5208)
04. Tăng Sự Gián Nghị (Samanubhāsanā)

LUẬT NGHI TỔNG QUÁT
Tỳ Kheo GIÁC GIỚI
Ấn bản 2003
Lưu ý: Đọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode)

04. TĂNG SỰ GIÁN NGHỊ (SAMANUBHĀSANĀ)

Sự gián nghị - Samanubhāsanā, tức là sự can gián, ngăn cản, khuyên răn một vị Tỳ-kheo phạm lỗi để cho chừa bỏ lỗi lầm ấy.

Khi một vị Tỳ-kheo hành động sai quấy, (giới tăng tàng bốn điều và giới ưng đối trị một điều), cần được chư Tỳ-kheo nhắc nhở cho thấy lỗi lầmcải thiện, nếu được nhắc nhở nhiều lần vẫn không cải thiện thì Tăng phải họp lại làm tăng sự can gián bằng cách tứ bạch tuyên ngôn (ñatticatutthakam-mavācā).

Nếu sau khi Tăng hành tăng sự can gián mà vị ấy từ bỏ khuyết điểm và sám hối tội thì tốt, bằng như vẫn cố chấp như cũ thì phạm tội với tội danh tùy theo luật đã chế định.

Trong giới bổn Pāṭimokkha có 5 điều cần làm tăng sự gián nghị, như sau:

 1. Tỳ-kheo cố định chia rẽ tăng (saṅgha-bheda), giới tăng tàng, điều thứ 10.
 2. Tỳ-kheo xu hướng chia rẽ tăng (bhe-dānuvattaka) giới tăng tàng, điều thứ 11.
 3. Tỳ-kheo tính khó dạy giới (dubbacajātika) giới tăng tàng, điều thứ 12.
 4. Tỳ-kheo làm xấu tục gia (kuladūsaka) giới tăng tàng, điều thứ 13.
 5. Tỳ-kheo có tà kiến (ariṭṭha) giới ưng đối trị điều 68.

Cách tuyên ngôn trong tăng sự gián nghị.

1) Tuyên ngôn gián nghị với Tỳ-kheo chia rẽ Tăng như vầy:

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu samaggassa saṅghassa bhedāya parakka-mati. So taṃ vatthuṃ nappaṭinissajjati. Yadi saṅ-ghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ samanubhāseyya tassa vatthussa paṭinissaggāya. Esā ñatti.

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu samaggassa saṅghassa bhedāya parakka-mati. So taṃ vatthuṃ nappaṭinissajjati. Saṅgho it-thannāmaṃ bhikkhuṃ samanubhāsati tassa vat-thussa paṭinissaggāya. Yass'āyasmato khamati it-thannāmassa bhikkhuno samanubhāsanā tassa vat-thussa paṭinissaggāya so tuṇh'assa yassa nakkha-mati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.

Suṇātu me bhante saṅgho . pe. so bhāseyya tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.

Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Samanubhaṭṭho saṅghena itthannāmo bhikkhu tassa vatthussa paṭinissaggāya. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi.

*

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma [1]này cố tình chia rẽ tăng. Vị ấy không từ bỏ việc đó. Nếu đã hợp thời với Tăng, tăng nên can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho từ bỏ việc ấy. Đó là lời bố cáo.

Bạch đại đức tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy cố tình chia rẽ tăng. Vị ấy không từ bỏ chuyện đó. Tăng can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho từ bỏ chuyện ấy. Sự can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho từ bỏ chuyện ấy, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, bằng vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai tôi tuyên bố ý nghĩa đó.

Bạch đại đức tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. lần thứ ba tôi tuyên bố ý nghĩa đó.

Bạch đại đức tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được Tăng can gián cho từ bỏ chuyện ấy. Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc đó là vậy.

2) Tuyên ngôn gián nghị đối với Tỳ-kheo xu hướng chia rẽ tăng, như vầy:

Suṇātu me bhante saṅgho itthannāmo ca it-thannāmo ca bhikkhū Itthannāmassa bhikkhuno saṅghabhedāya parakkamantassa anuvattakā vagga-vādakā. Te taṃ vatthuṃ nappaṭinissajjanti. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmañca it-thannāmañca bhikkhū samanubhāseyya tassa vat-thussa paṭinissaggāya. Esā ñatti.

Suṇātu me bhante saṅgho itthannāmo ca itthannāmo ca bhikkhū Itthannāmassa bhikkhuno saṅghabhedāya parakkamantassa anuvattakā vagga-vādakā. Te taṃ vatthuṃ nappaṭinissajjanti. Saṅgho Itthannāmañca Itthannāmañca bhikkhū samanubhā-sati tassa vatthussa paṭinissaggāya. Yass'āyasmato khamati Itthannāmassa ca Itthannāmassa ca bhik-khūnaṃ samanubhāsanā tassa vatthussa paṭinis-saggāya so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhā-seyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.

Suṇātu me bhante saṅgho. pe. so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.

Suṇātu me bhante saṅgho. pe. So bhāseyya Samanubhaṭṭhā saṅghena itthannāmo ca it-thannāmo ca bhikkhū tassa vatthussa paṭinissaggāya khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhāra-yāmi".

*

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma tùng bọn phe đảng với Tỳ-kheo Itthannāma quyết chia rẽ tăng. Họ không từ bỏ chuyện ấy. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng phải can gián các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma cho từ bỏ chuyện ấy. Đó là lời bố cáo.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma tùng bọn phe đảng với Tỳ-kheo Itthannāma quyết chia rẽ tăng. Họ không từ bỏ chuyện ấy. Tăng can gián các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma cho từ bỏ chuyện ấy. Sự can gián các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma cho từ bỏ chuyện ấy, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng bằng vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ nhì tôi tuyên bố ý nghĩa đó.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Lần thứ ba tôi tuyên bố ý nghĩa đó.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma đã được tăng can gián cho từ bỏ chuyện ấy, tăng chấp nhận mới in lặng. Tôi xin ghi nhận việc đó như vậy.

3) Tuyên ngôn gián nghị đối với Tỳ-kheo khó dạy, như vầy:

"Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu bhikkhūhi sahadhammikaṃ vuccamāno attā-naṃ avacanīyaṃ karoti. So taṃ vatthuṃ nappaṭi-nissajjati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho it-thannāmaṃ bhikkhuṃ samanubhāseyya tassa vat-thussa paṭinissaggāya. Esā ñatti.

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu bhikkhūhi sahadhammikaṃ vuccamāno attā-naṃ avacanīyaṃ karoti. So taṃ vatthuṃ nappaṭinis-sajjati. Saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ samanubhā-sati tassa vatthussa paṭinissaggāya. Yass' āyasman-to khamati Itthannāmassa bhikkhuno samanubhāsa-nā tassa vatthussa paṭinissaggāya so tuṇh' assa yas-sa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.

Suṇātu me bhante saṅgho. pe. so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.

Suṇātu me bhante saṅgho. pe. so bhāseyya. Samanubhaṭṭho saṅghena itthannāmo bhikkhu tassa vatthussa paṭinissaggāya. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi".

*

Bạch đại đức tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy khi được chư Tỳ-kheo nhắc bảo theo đúng pháp lại tỏ ra mình khó dạy. Vị ấy không từ bỏ chuyện đó. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng phải nên can gián Tỳ-kheo cho bỏ chuyện ấy đi. Đó là lời bố cáo.

Bạch đại đức tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy khi được chư Tỳ-kheo nhắc bảo theo đúng pháp lại tỏ ra mình khó dạy. Vị ấy không từ bỏ chuyện đó. Tăng can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho bỏ chuyện ấy Ṣự can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho bỏ chuyện ấy, nếu vị Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai tôi tuyên bố ý nghĩa đó.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt... nên nói ra. Lần thứ ba tôi tuyên bố ý nghĩa đó.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được Tăng can gián cho từ bỏ chuyện ấy. Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi ghi nhận việc đó như vậy.

4) Tuyên ngôn gián nghị đối với Tỳ-kheo làm xấu tục gia, như vầy:

"Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu saṅghena pabbājanīyakammakato bhikkhū chandagāmitā dosagāmitā mohagāmitā bhayagāmitā pāpeti. So taṃ vatthuṃ nappaṭinissajjati. Yadi saṅ-ghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ samanubhāseyya tassa vatthussa paṭinissaggāya. Esā ñatti.

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu saṅghena pabbājanīyakammakato bhikkhū chandagāmitā dosagāmitā mohagāmitā bhayagāmitā pāpeti. So taṃ vatthuṃ nappaṭinissajjati. Saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ samanubhāsati tassa vat-thussa paṭinissaggāya. Yass'āyasmato khamati it-thannāmassa bhikkhuno samanubhāsanā tassa vat-thussa paṭinissaggāya so tuṇh'assa yassa nakkha-mati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.

Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.

Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya samanubhaṭṭho saṅghena itthannāmo bhikkhu tassa vatthussa paṭinissaggāya. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi" .

*

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma bị chư tăng xử lý trục xuất lại bêu xấu chư Tỳ-kheo là thiên vị thương, ghét, ngu, sợ. Vị ấy không từ bỏ chuyện đó. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng phải nên can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho từ bỏ chuyện đó. Đây là lời bố cáo.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma này bị chư tăng xử lý trục xuất lại bêu xấu chư Tỳ-kheo là thiên vị thương, ghét, ngu, sợ. Vị ấy không từ bỏ chuyện đó. Tăng can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho từ bỏ chuyện đó. Sự can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho bỏ chuyện đó nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai tôi tuyên bố ý nghĩa đó.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Lần thứ ba tôi tuyên bố ý nghĩa đó.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được Tăng can gián cho từ bỏ chuyện đó. Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi ghi nhận việc đó như vậy.

5) Tuyên ngôn để gián nghị đối với Tỳ-kheo tà kiến, như vầy:

"Suṇātu me bhante saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppan-naṃ tathā' haṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānā-mi yathā ye' me antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevati n' ālaṃ antarāyāyā' ti. So taṃ diṭṭhiṃ nappaṭinissajjati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅ-gho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ samanubhāseyya tassā diṭṭhiyā paṭinissaggāya. Esā ñatti.

Suṇātu me bhante saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppan-naṃ tathā' haṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā ye' me antarāyikā dhammā vuttā bha-gavatā te paṭisevato n'ālaṃ antarāyāyā'ti. So taṃ diṭṭhiṃ nappaṭinissajjati. Saṅgho Itthannāmaṃ bhik-khuṃ samanubhāsati tassā diṭṭhiyā paṭinissaggāya. Yass' āyasmato khamati Itthannāmassa bhikkhuno samanubhāsanā tassā diṭṭhiyā paṭinissaggāya so tuṭh'assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.

Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... So bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.

Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... So bhāseyya. Samanubhaṭṭho saṅghena itthannāmo bhikkhu tassā diṭṭhiyā paṭinissaggāya khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhāra-yāmi".

*

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, đối với Tỳ-kheo Itthannāma có ác tà kiến sanh khởi như sau: "Theo tôi biết pháp do Đức Thế Tôn thuyết thì những pháp mà Ngài nói là chướng ngại, thật sự không đủ để làm trở ngại cho người hành theo đâu". vị ấy không từ bỏ tà kiến đó. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng phải nên can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho bỏ tà kiến ấy. Đó là lời bố cáo.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, đối với Tỳ-kheo Itthannāma có có ác tà kiến sanh khởi như sau: "theo tôi biết pháp do Đức Thế Tôn thuyết thì những pháp mà Ngài nói là chướng ngại, thật sự không đủ để làm trở ngại cho người hành theo đâu". Vị ấy không từ bỏ tà kiến đó. Tăng can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho bỏ tà kiến ấy. Sự can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho bỏ tà kiến ấy, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ nhì tôi tuyên bố ý nghĩa đó.

Bạch đại đức tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Lần thứ ba tôi tuyên bố ý nghĩa đó.

Bạch Đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được tăng can gián cho bỏ tà kiến ấy. Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc đó như vậy.

DỨT TĂNG SỰ GIÁN NGHỊ

-ooOoo-
 

TĂNG SỰ PHÊ CHUẨN CHỖ XÂY CẤT
(VATTHUDESANĀ)

Luật Tỳ-kheo có qui định việc vị Tỳ-kheo xây dựng am cốc (kuṭi) và đại tịnh xá (mahalla-kavihāra), phải làm ở một vị trí thuận lợi an ổn, tức là chỗ không có điều khả nghi, chỗ có lối thông chung quanh. Am cốc xây dựng còn có thêm qui định về kích cỡ nữa. Bất cứ trường hợp nào, về chỗ xây cất đều phải được chư tăng xác minh và phê chuẩn mới được phép làm. Luật tăng tàng, điều sáu và điều bảy.

Việc chư tăng xác minh và phê chuẩn vị trí xây cất, phải qua tăng sự nhị bạch tuyên ngôn (ñattidutiyakamma). Tăng sự được tiến hành hai giai đoạn, cử người xác minh (olokana), và phê chuẩn (desanā).

*

Tăng sự phê chuẩn chỗ thất liêu.

Am cốc - Kuti, là chỗ ở cá nhân của vị Tỳ-kheo, nếu tự mình quyên góp để xây dựng cho mình, không có thí chủ đứng ra chịu tổn phí cho, thì phải cất với kích cỡ qui định là ngang 5,25 mét (7 gang tay Phật) dài 9 mét (12 gang tay Phật); và chỗ nền xây cất phải xin chư Tỳ-kheo xác minh phê chuẩn.

Vị Tỳ-kheo cốc chủ ấy phải tìm đến Tăng và trước hết yêu cầu chư Tăng xác minh chỗ nền xây thất. Mặc y vai trái, đảnh lễ những vị trưởng lão, ngồi chồm hổm và tác bạch rằng:

Ahaṃ bhante saññācikāya kuṭiṃ kattukāmo assāmikaṃ attuddesaṃ. So' haṃ bhante saṅghaṃ kuṭivatthu-olokanaṃ yācāmi. Dutiyampi ...pe... Tatiyampi ...pe...

Bạch đại đức tăng, tôi muốn làm ngôi am cốc cho mình không có thí chủ, do tự quyên góp. Bạch Tăng, tôi xin Tăng xem xét nền cốc. Lần thứ nhì ... nt ... Lần thứ ba ... nt ...

Chư Tăng nên cử ra hai vị Tỳ-kheo hiểu luật để đi đến chỗ ấy xem xét nền cốc có hợp lý không, bằng cách tuyên ngôn đề cử như sau:

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu saññācikāya kuṭiṃ kattukāmo assāmikaṃ attuddesaṃ. So saṅghaṃ kuṭivatthu-olokanaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmañca Itthannāmañca bhikkhū sammanneyya Itthannāmas-sa bhikkhuno kuṭivatthuṃ oloketuṃ. Esā ñatti.

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu saññācikāya kuṭiṃ kattukāmo assāmikaṃ attuddesaṃ. So saṅghaṃ kuṭivatthu-olokanaṃ yācati. Saṅgho Itthannāmañca Itthannāmañca bhikkhū sammannati Itthannāmassa bhikkhuno kuṭivatthuṃ olo-ketuṃ. Yass'āyasmato khamati Itthannāmassa ca Itthannāmassa bhikkhūnaṃ sammati Itthannāmassa bhikkhuno kuṭivatthuṃ oloketuṃ so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya. sammatā saṅghena itthan-nāmo ca itthannāmo ca bhikkhū Itthannāmassa bhikkhuno kuṭivatthuṃ oloketuṃ. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi".

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy muốn làm ngôi am cốc cho mình, không có thí chủ, do tự quyên góp. Vị ấy xin Tăng xét nền cốc. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cử các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma xem xét nền cốc của Tỳ-kheo. Đó là lời bố cáo.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy muốn làm ngôi am cốc cho mình, không có thí chủ, do tự quyên góp. Vị ấy xin Tăng xem xét nền cốc. Tăng cử các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma xem xét nền cốc của Tỳ-kheo Itthannāma. Việc cử các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma xem xét nền cốc của Tỳ-kheo Itthannāma, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma được tăng cử đi xem xét nền cốc của Tỳ-kheo Itthannāma, Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi ghi nhận việc đó như vậy.

Hai vị Tỳ-kheo được Tăng cử đi, hãy đến chỗ ấy để xem xét địa thế, thấy như thế nào thì trở lại trình Tăng rõ; khi đã xác minh thấy là chỗ xây cất được hợp lý thì Tăng phê chuẩn cho phép Tỳ-kheo cốc chủ tiến hành xây cất. Sự phê chuẩn ấy cũng phải qua tăng sự nhị bạch tuyên ngôn.

Tỳ-kheo cốc chủ ngỏ lời xin Tăng phê chuẩn rằng:

Ahaṃ bhante saññācikāya kuṭiṃ kattukāmo assāmikaṃ attuddesaṃ. So'haṃ bhante saṅghaṃ kuṭivatthudesanaṃ yācāmi. Dutiyampi ...pe... Tati-yampi ...pe...

Bạch đại đức Tăng, tôi muốn làm am thất cho mình, không có thí chủ, do tự quyên góp. Bạch Tăng, tôi xin Tăng phê chuẩn chỗ nền cốc. Lần thứ nhì ... nt ... Lần thứ ba ... nt ...

Tiếp đến Tăng cần được thông qua bằng tuyên ngôn như sau:

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu saññācikāya kuṭiṃ kattukāmo assāmikaṃ attuddesaṃ. So saṅghaṃ kuṭivatthudesanaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno kuṭivatthuṃ deseyya. Esā ñatti.

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu saññācikāya kuṭiṃ kattukāmo assāmikaṃ attuddesaṃ. So saṅghaṃ kuṭivatthudesanaṃ yācati. saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno kuṭivatthuṃ dese-ti. Yass' āyasmanto khamati Itthannāmassa bhik-khuno kuṭivatthussa desanā so tuṇh' assa yassa nak-khamati so bhāseyya. Desitaṃ saṅghena itthannā-massa bhikkhuno kuṭivatthuṃ khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi" .

Bạch đại đưc Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy muốn làm am cốc cho mình, không có thí chủ, do tự quyên góp. vị ấy xin Tăng phê chuẩn chỗ nền cốc. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên phê chuẩn chỗ nền cốc của Tỳ-kheo Itthannāma. Đó là lời bố cáo.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy muốn làm am cốc cho mình, không có thí chủ, do tự quyên góp. Vị ấy xin Tăng phê chuẩn chỗ nền cốc. Tăng phê chuẩn chỗ nền cốc của Tỳ-kheo Itthannāma. Việc phê chuẩn nền cốc của Tỳ-kheo Itthannāma nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Nền cốc của Tỳ-kheo Itthannāma đã được phê chuẩn, tăng chấp nhận nên mới im lặng. Tôi ghi nhận việc đó như vậy.

Tăng sự phê chuẩn chỗ làm đại tịnh xá.

Đại tịnh xá. Mahallakavihāra, là một ngôi chùa riêng, có khuôn viên rộng lớn, được thí chủ làm cúng cho Tỳ-kheo; dù không giới hạn kích cỡ, nhưng cũng phải được Tăng xác minh phê chuẩn vị trí tọa lạc.

Trước hết, vị Tỳ-kheo chủ nhân phải tìm đến Tăng để xin xem xét vị trí nền tịnh xá, lời tác bạch như sau:

Ahaṃ bhante mahallakaṃ vihāraṃ kat-tukāmo sassāmikaṃ attuddesaṃ. So' haṃbhante saṅ-ghaṃ vihāravatthu-olokanaṃ yācāmi. Dutiyampi ...pe... Tatiyampi ...pe...

Bạch đại đức Tăng, tôi muốn làm ngôi đại tịnh xá cho mình, có thí chủ cúng. Bạch Tăng, tôi xin Tăng xem xét nền tịnh xá. Lần thứ nhì ... nt ... Lần thứ ba ... nt ...

Tăng cần được thông qua bằng nhị bạch tuyên ngôn để cử hai vị đi xác minh, như sau:

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu mahallakaṃ vihāraṃ kattukāmo sassāmi-kaṃ attuddesaṃ Ṣo saṅghaṃ vihāravatthu-oloka-naṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho it-thannāmañca Itthannāmañca bhikkhū sammanney-ya Itthannāmassa bhikkhuno vihāravatthuṃ oloke-tuṃ. Esā ñatti .

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu mahallakaṃ vihāraṃ kattukāmo sassāmi-kaṃ attuddesaṃ. So saṅghaṃ vihāravatthu-oloka-naṃ yācati. Saṅgho Itthannāmañca Itthannāmañca bhikkhū sammannati Itthannāmassa bhikkhuno vihā-ravatthuṃ oloketuṃ. Yass' āyasmato khamati it-thannāmassa ca Itthannāmassa ca bhikkhūnaṃ sammati Itthannāmassa bhikkhuno vihāravatthuṃ oloketuṃ so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāsey-ya. Sammatā saṅghena itthannāmo ca itthannāmo ca bhikkhū Itthannāmassa bhikkhuno vihāravatthuṃ oloketuṃ. khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evame-taṃ dhārayāmi".

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy muốn làm ngôi đại tịnh xá cho mình, có thí chủ cúng. Vị ấy xin Tăng xem xét nền tịnh xá. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cử các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma đi xem xét nền tịnh xá của Tỳ-kheo Itthannāma. Đó là lời bố cáo.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy muốn làm ngôi đại tịnh xá cho mình, có thí chủ cúng. Vị ấy xin Tăng xem xét nền tịnh xá. Tăng cử các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma đi xem xét nền tịnh xá của Tỳ-kheo Itthannāma. Việc cử Tỳ-kheo Itthannāma và itthan-nāma xem xét nền tịnh xá của Tỳ-kheo itthan-nāma, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma đã được Tăng cử đi xem xét nền tịnh xá của Tỳ-kheo Itthannāma, Tăng chấp nhận nên mới im lặng. Tôi ghi nhận việc đó như vậy.

Hai vị được Tăng cử đi, hãy đến chỗ ấy xem xét nền xây dựng tịnh xá, nếu thấy thích hợp rồi thì trở lại trình Tăng rỏ; về vị Tỳ-kheo chủ nhân phải tác bạch xin Tăng phê chuẩn chỗ làm tịnh xá ấy, như sau:

Ahaṃ bhante mahallakaṃ vihāraṃ kattu-kāmo sassāmikaṃ attuddesaṃ. So' haṃ bhante saṅ-ghaṃ vihāravatthudesanaṃ yācāmi. Dutiyampi ...pe... Tatiyampi ...pe...

Bạch đại đức Tăng, tôi muốn làm ngôi đại tịnh xá cho mình, có thí chủ cúng. Bạch Tăng, Tôi cầu xin Tăng phê chuẩn nền tịnh xá. Lần thứ nhì ... nt ... Lần thứ ba ... nt...

Tiếp đến Tăng phải được thông qua bằng nhị bạch tuyên ngôn để phê chuẩn, như sau:

"Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu mahallakaṃ vihāraṃ kattukāmo sassāmi-kaṃ attuddesaṃ. So saṅghaṃ vihāravatthudesanaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho itthan-nāmassa bhikkhuno vihāravatthuṃ deseyya. Esā ñatti.

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu mahallakaṃ vihāraṃ kattukāmo sassāmi-kaṃ attuddesaṃ. So saṅghaṃ vihāravatthudesanaṃ yācati. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno vihāravat-thuṃ deseti. Yass' āyasmato khamati Itthannāmas-sa bhikkhuno vihāravatthudesanā so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Desitaṃ saṅghena itthan-nāmassa bhikkhuno vihāravatthuṃ. khamati saṅ-ghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi".

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy muốn làm ngôi đại tịnh xá cho mình, có thí chủ cúng. Vị ấy xin Tăng phê chuẩn nền tịnh xá. Nếu đã hợp với Tăng, Tăng hãy nên phê chuẩn nền tịnh xá của Tỳ-kheo Itthannāma. Đó là lời bố cáo.

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy muốn làm ngôi đại tịnh xá cho mình, có thí chủ cúng. Vị ấy xin Tăng phê chuẩn nền tịnh xá. Tăng phê chuẩn nền tịnh xá của Tỳ-kheo Itthannāma. Việc phê chuẩn nền tịnh xá của Tỳ-kheo Itthannāma nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Nền tịnh xá của Tỳ-kheo Itthannāma đã được tăng phê chuẩn. Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi ghi nhận việc đó như vậy.

DỨT TĂNG SỰ PHÊ CHUẨN CHỖ XÂY CẤT.

-ooOoo-
 

TĂNG SỰ CHO PHÉP LÌA TAM Y
(TICĪVARĀVIPPAVĀSASAMMATI)

Trong luật Tỳ-kheo, giới Ưng xả đối trị (nissag-giyapācittiya), điều thứ hai có nói: Vị Tỳ-kheo xa lìa tam y cách đêm phạm ưng xả đối trị, ngoại trừ vị Tỳ-kheo được cho phép.

Tỳ-kheo có 3 trường hợp được phép lìa xa tam y cách đêm không phạm tội, là đang trong thời gian hưởng quyền lợi Kaṭhina, đang cư ngụ trong phạm vi ticīvarāvippavāsasīmā, có sự cho phép của Tăng vì lý do bệnh.

Trường hợp vị Tỳ-kheo bệnh muốn ra đi đến nơi khác để điều trị mà không thể mang theo tam y bên mình, thì nên xin phép Tăng cho xa lìa tam y, nhất là y Saṅghāṭi. Vậy mới không phạm tội ưng xả.

Vị Tỳ-kheo ấy phải đến tác bạch với Tăng như sau:

Ahaṃ bhante gilāno na sakkomi ticīva-raṃ ādāya pakkamituṃ. So' haṃ bhante saṅghaṃ ticīva-rena avippavāsasammatiṃ yācāmi. Dutiyampi ... pe ... tatiyampi ... pe ...

Bạch chư Tăng, tôi bị bệnh không thể đi mang theo tam y. Bạch chư Tăng, tôi cầu xin Tăng cho phép lìa xa tam y.

Tăng phải chấp thuận bằng tăng sự nhị bạch tuyên ngôn, như vầy:

"Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu gilāno na sakkoti ticīvaraṃ ādāya pakka-mituṃ. So saṅghaṃ ticīvarena avippavāsasammatiṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho itthan-nāmassa bhikkhuno ticīvarena avippavāsasammatiṃ dadeyya. Esā ñatti.

Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu gilāno na sakkoti ticīvaraṃ ādāya pakka-mituṃ. So saṅghaṃ ticīvarena avippavāsasammatiṃ yācati. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno ticīvarena avippavāsasammatiṃ deti. Yass' āyasmato khamati Itthannāmassa bhikkhuno ticīvarena avippavāsasam matiyā dānaṃ so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dinnā saṅghena Itthannāmassa bhikkhuno ticīvarena avippavāsasammati. khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi."

Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy bị bệnh không thể đi mang theo tam y. Vị ấy xin Tăng cho phép lìa xa tam y. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cho phép lìa xa tam y đối với Tỳ-kheo Itthannāma. Đó là lời bố cáo.

Bạch Đại Đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy bị bệnh không thể đi mang theo tam y. Vị ấy xin Tăng cho phép lìa xa tam y. Tăng cho phép lìa xa tam y đối với Tỳ-kheo Itthannāma. Việc cho phép lìa xa tam y đối với Tỳ-kheo Itthannāma, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Đối với Tỳ-kheo Itthannāma, Tăng đã cho phép lìa xa tam y. Tăng chấp nhận nên mới im lặng Tôi xin ghi nhận Việc đó như vậy.

Sau khi được tăng chấp thuận, Tỳ-kheo bệnh ấy có quyền xa lìa một trong tam y cách đêm không phạm tội; nhưng hiệu lực của sự cho phép, chỉ trong thời gian còn bệnh, khi hết bệnh thì hết hiệu lực của chỉ thị.

DỨT TĂNG SỰ CHO PHÉP LÌA XA TAM Y

-ooOoo-

[1] Itthannāma: "tên vậy vậy". Khi ám chỉ ai thì nói tên người ấy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12504)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10388)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12350)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11654)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28814)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12056)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13014)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11448)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12383)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17449)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53069)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35494)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21407)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10679)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19244)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12410)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26052)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13322)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14388)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16094)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13731)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16851)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17594)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13137)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12539)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11614)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11623)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14514)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20489)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18997)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19582)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18663)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12190)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12325)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13867)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15035)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15042)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13996)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15529)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17201)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14985)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20214)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14629)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13854)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11714)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15068)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13000)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22893)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14562)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11665)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13174)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16891)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18351)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11949)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11508)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15859)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12893)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18925)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18431)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant