Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 8: Tư Tưởng Phật Giáo với Văn Hoá Sử

01 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 9549)
Chương 8: Tư Tưởng Phật Giáo với Văn Hoá Sử


ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO TƯ TƯỞNG LUẬN
Tác Giả: Kimura Taiken

Hán Dịch: Thích Diễn Bồi - Việt Dịch: Thích Quảng Độ
Xuất Bản: Viện Đại Học Vạn Hạnh 1969 - Phật Học Viện Quốc Tế, USA 1986

THIÊN THỨ HAI
ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO, GIÁO LÝ LUẬN

CHƯƠNG THỨ TÁM

TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO VỚI VĂN HÓA SỬ

TIẾT THỨ NHẤT: 
ÐỨC PHẬT VỚI TƯ TRÀO THỜI ÐẠI

Trước hết hãy căn cứ vào sự thành lập và khai triển của tư tưởng Phật Giáo để tìm hiểu lập trường nội quán.

Tư tưởng Phật Giáo tuy lấy nội quán làm nền tảng, nhưng vì nhiều yếu tố phức tạp nên được thêm thắt vào, nên kết quả sự thành lập cũng như khai triển của tư tưởng Phật Giáo không thể nào nói một cách đơn giản được. Nhất là Phật Giáo nguyên thủyPhật Giáo Ðại Thừa, như trên đã nói, đối với tư tưởng giới và phong khí xã hội thời bấy giờ có những quan hệ rất mật thiết. Nếu không hiểu được xu thế của nền văn hoá đương thời mà mong lý giải được chân lý của tư tưởng Phật Giáo là một điều vô cùng khó khăn. Phật giáo tuy đã phát xuất từ sự tự giác của đức Phật, nhưng vì bối cảnh của thời đại, vì muốn hướng dẫn lòng người, nên bất luận dưới hình thức nào, cũng cần phải có sự tiếp xúc với tinh thần thời đại. Do đó hãy thử đứng về phương diện này để tìm hiểu sự khai triển của tư tưởng Phật Giáo.

Trước hết hãy đề cập đến Phật Giáo nguyên thủy.

Phật Giáo nguyên thủy là thành qủa của sự tự giác của đức Phật, đó là điề chúnh ta thấy đã được ghi rõ trong các kinh điển Phật Giáo. Nhưng vì phương tiện giáo hoá quần chúng nên đối với xu thế của tôn giáo giới hoặc xã hôi đương thời, đức Phật ít ra đã suy nghĩ rất kỹ lưỡng.
Có một số học giả đã nói: " Ðặc sắc của Phật là thâu thái những sở trường của tôn giáo giới thời bấy giờ rồi đem phê phán, chế biến mà lập thành giáo thuyết của mình. Nếu đem tất cả những yếu tố đó trả lại nguyên bản của nó thì giáo thuyết của Phật không còn gì mới mẻ". Dĩ nhiên đây là một nhận địnhtính cách võ đoán và cực đoan, nhưng không phải hoàn toàn không đúng. Vì dù sao thì sự thành lập Phật Giáo nguyên thuỷ đối với nền văn hoá đương thời cũng mang nợ rất nhiều, đó là điều không ai có thể phủ nhận. Trong nhiều thí dụ, xin cử ra đây một thí dụ rất hiển nhiên, đó là trường hợp "Duyên-khởi-quan" mà được coi là chổ lập cước căn bản của Phật Giáo nguyên thuỷ.

Duyên-khởi quan là một nguyên lý yếu ước, nó cho rằng tất cả các hiện tượng (lấy sinh hoạt tâm lý làm trung tâm ) liên quan lẫn nhau mà tồn tại, cái này duyên cái kia, không một vật gì đứng riêng biệt. Ðức Phật chính nhờ ở sự thấy triệt được lý Duyên-khởi này mà thành chính giác. Về sau, tất cả tư tưởng Phật Giáo đã xuất phát từ điểm cơ bản này, cho nên đối với Phật Giáo nó đã hình thành một quan niệm nền tảng của giáo lý (xin xem Nguyên thuỷ Phật Giáo tư tưởng luận ).
Các học giả cận đại thường đề cập đến Duyên-khởi quan, nhưng đối với ý nghĩa Nguyên thuỷ của nó, đức Phật cứu kính muốn dùng nó để giải quyết cái gì? Câu hỏi này đại kháibất khả tư nghị, bởi vậy các học giả vẫn chưa có được sự lý giải rõ ràng. Theo chỗ tôi hiểu, lúc đầu lý Duyên-khởi liên quan đến vấn đề giải quyết vận mệnh của con người. Nghĩa là lấy lão, bệnh, tử làm trung tâm suy cứu đến cái căn nguyên của khổ, vui, hoạ, phúc.

Ðây cũng là một vấn đề trung tâm của tất cả tôn giáo giới thời bấy giờ. Nhưng theo tư tưởng giới đương thời thì giải đáp cho vấn đề này có ba luận thuyết khác nhau:

_ Tha Tác luận (Paramkata vada): tất cả sự khổ, vui của kiếp người là do một tác dụng nào con người quy định, con người không biết được, đó là chủ trương của Túc mệnh lụân.

_ Tự Tác luận (Sayamkata vada): trái hẳn với thuyết trên, thuyết này cho rằng tất cả khổ, vui đều tự con người chuốc lấy, tất cả đều do mình tự tạo đó là chủ trương của Tự do luận. 

_ Vô nhân vô duyên luận (Mahetu appaccaya vada): thuyết này cho rằng tất cả khổ, vui, hoạ, phúc đều là những sự kiện ngẫu nhiên.

Duyên-khởi quan của Phật bài xích cả ba quan niệm về nhân sinh kể trên, nhưng đồng thời theo một ý nghĩa nào đó, cũng lại bao gồm cả ba thuyết ấy. Các kinh thường nêu ba thuyết trên ra trên ra để phủ định rồi sau mới nói đến Duyên-khởi quan của mình.

Theo Phật thì khổ, vui, hoạ, phuc không phải là kết quả ngẫu nhiên, không phải là vận mệnh an bài, mà cũng không phải là chủ thể cố định tự mình chuốc lấy, mà là do nhiều nhân duyên, và chỉ cần biến đổi những nhân duyên đó thì khổ, vui, họa, phúc, cũng có thể được biến đổi. Mà căn bản của những nhân duyên đó là cái tâm của ta, nếu ta cố gắng hoán cải tâm ta thì ta có thể chinh phục được khổ, vui, hoạ, phúc. Nói cách khác, khổ đau hay hạnh phúc là tuỳ theo thái độ tinh thần của mỗi người. Chú ý của câu Phật thường nói: "Ta là người chủ trương nỗ lực luận " chính là ở điểm này .

Như vậy thì bản ý của Duyên-khởi quan không phải là Tự-do-luận. Nhưng, không may vì bối cảnh tư tưởng như đã nói trên, vì sự thiếu sự khảo sát thâm sâu nên bản ý của Duyên-khởi quan từ xưa đã bị hiểu lầm.

Cho đến những năm gần đây tôi đã được thấy hai sự ngộ nhận công khai phát biểu như sau :
Lập trường Phật Giáo, vì xây dựng trên nền tảng Duyên-khởi quan, nên tất cả đều đươc coi như đã đựơc quy định bởi những quan hệ nhân quả tất nhiên, do đó duyên-khởi quan của Phật Giáo cũng gần như là Túc mệnh luận.

Duyên-khởi quan thật ra tự do quy định và cũng gần như Tự-tác-luận. Ðó là những nhận định sai lầm.
Tóm lại, chỗ lập cước căn bản của Phật Giáo đã có những quan hê mật thiết với tư tưởng giới đương thời như thế thì, ngoài ra những đức mục những phương pháp hành đạo đoàn Phật Giáo có quan hệ như thế nào đối với tư tưởng giới hạn chế độ tôn giáo thời bấy giờ, thiết tưởng do đó ta cũng có thể hiểu được phần lớn vậy. 

TIẾT THỨ HAI: 
KINH ÐIỂN ÐẠI THỪA VỚI BỐI CẢNH VĂN HÓA SỬ.

Về điểm nghiên cứu này, Phật Giáo Nguyên thuỷ tuy cũng đã có nhiều tiến bộ, nhưng Phật Giáo Ðại Thừa cũng ở trong một hoàn cảnh, nghĩa là cũng phải thích ứng với thời thế để phát triển, so với Phật Giáo nguyên thuỷ tựa hồ như chưa có gì đáng kể. Ðó là một điều thật đáng tiếc. Sự nghiên cứu của Ðại Thừa, trên đãi thể, hầu như chưa đạt đến điểm mà Phật Giáo Nguyên thuỷ đã đạt. Phương pháp biểu hiện của kinh điểm Ðại Thừa rất nghệ thuật và rất biến hình, cho nên nếu đem nó trực tiếp trở về với tình hình văn hóa đương thời mà khảo xác, người ta sẽ cảm thấy vô cùng phiền phức và khó khăn. Do đó, ở đây tôi chỉ có thê đứng trên lập trường đại lượctìm hiểu xem giữa sự hưng khởi của Phật Giáo Ðại Thừa và thời thế lúc đó có những quan hệ mật thiết nào mà thô, chứ nếu tìm ra cho tất cả các mối liên hệ một cách tường tận thì việc đó không thể làm được.

Nói một cách đại thể, đối với thời thế lúc đó, tư tưởng Ðại Thừa có quan hệ về hai phương diện tích cựctiêu cực. Ðiểm này, theo tôi không còn hồ nghi gì nữa.Về mặt tích cực, vì muốn thích ứng với áng thơ Ma-ha-bà-la-đa (mahabharata) gồm mười vạn bài tụng, thì đầu tiên là Ðại bản Bát -Nhã (Thập vạn tụng Bát-Nhã ) sản sinh ra mười vạn bài kinh tụng khác nhau.Rồi lại trong tính ngưỡng giới Tân Bà-la-môn Giáo đương thời có những quan niệm về các õi Tịnh Ðộ của thần linh, thì để kích ứng với điểm này, Phật Giáo cũng lại cố gắng đế xuất những tính ngưỡng Tịnh độ, cứ như thế mà đối chọi nhau, đó là về mặt tích cực, đối với thời thế tư lúc đó Phật Giáo cũng thấy thiếu sót, nên nảy ra ý kiến bổ chính hoặc cải tạo ra nhiều hình thức. Mà sứ mệnh của Phật Giáo Ðại Thừa trên lĩnh vực văn hoá sử. Nhưng, như vừa nói ở trên, vì còn nhiều điểm mà Phật Giáo Ðại Thừa chưa đạt đến, nên ở đây tôi chỉ xin nêu lên hai, ba điểm để tiến tới việc nghiên cứu toàn bộ.

Ðiểm thứ nhất, về chủ nghĩa Kim sắc nguyện trong kinh Di Ðà bản nguyện. Kinh Ðại Vô Lựơng Thọ nguyện thứ ba và thứ thư nói : "Xin cho nhân dân trong nước cùng toàn một sắc vàng ". Chủ ý của nguyện này là không có sự phân biệt sâu sắc. Nhưng nếu truy tầm cho kỹ ta sẽ thấy lời nguyện đó rõ ràng ngụ một lý tưởng đã phá giai cấp để thực hiện một sự bình đẳng nhân chủng. Ðó là điều ta cần lưu ý. Rồi đến kinh A Sơ Phật Quốc nói: "Nguyện cho nhân dân trong cõi Tịnh Ðộ của ta không có sắc màu xấu xí ". Lại trong Ðại Phẩm Bát-Nhã cũng có câu: "Nguyện cho nhân dân không có sự sai khác về sắc tướng ". Nhất là trong Ðại Bản Bát-Nhã (mười vạn bài tụng) lại nói "Trong cõi nước của đức Phật ta không có các loài hữu tình sai khác về hình sắc như đoan chính hay xấu xí, mà tất cả đều là sắc vàng, trang nghiêm, đẹp đẽ, ai cũng muốn nhìn, thành tựu màu sắc trong sạch đầy đủ thứ nhất".

Tóm lại, chủ ý của những câu kinh trên đây là nguỵên cho tất cả mọi người, không trừ một ai, đều được cái hình tướng nhân chủng bình đẳng, vì sắc vàng thật ra cũng chỉ là một loại hình dung.

Nguyên lai sự phân biệt về nhân chủng đã trở thành cơ sở rồi từ đó đã phát sinh ra tứ tính (varna: sắc: tính) và do sự phân biệt tứ tínhnhân loại đã có quan niệm về giai cấp, làm cản trở sự dung hợp giữa nhân dân. Ðối với cái tệ tập phân biệt giai cấp của xã hội đương thời, muốn bài trừ, cho nên những bản nguyện trên đây bày tỏ một lý tưởng: lý tưởng xã hội bình đẳng. Ðiều này trong bản nguyện của Ðại Bản Bát-Nhã được ca ngợi một cách rõ ràng, đặc biệt trong nguyện 12 và 13 nói: "Trong cõi Tịnh Ðộ của ta không có sự phân biệt tứ tính, trong tất cả chúng sinh không có sự phân biệt thượng, trung, hạ ". Rõ ràngbản nguyện này do tình thế xã hội hiện thực đương thời mà có, mục đíchbài trừ thành kiến về nhân chủng, và thủ tiêu sự tranh chấp giai cấp, mà phương tiện hoà giải là căn cứ vào tinh thần bình đẳng của Bát-Nhã và lòng từ bi của Phật.

Tóm lại, nếu không thấy rõ được tình thế xã hội đương thời và thái độ của Phật Giáo đối với tình thế đó, thì không thể lĩnh hội được các ý nghĩa đạo đức của bản nguyện Kim Sắc trên đây. 

Giờ đến điểm thứ hai. Một đặc sắc lớn trong bản nguyện của Ðại Phẩm Bát-Nhã là dân chúng trong cõi lý tưởng đó không còn cái "nạn " đại tiện, tiểu tiện nữa. Mới nghe qua, tuy có vẻ hoàn toànkhông tưởng, nhưng nếu đem bản nguyện này trở về vơí cái trạng thái của xã hội lý tưởng sau khi Di Lặc giáng sinh mà khảo sát tinh thần của nó, ta sẽ thấy nó bao hàm một lý tưởng thiết bị về văn hoá. Khi Di Lặc giáng sinh thì tất cả mọi thiết bị về văn hoá đều hoàn mỹ, như về thiết bị tiểu tiện thì nói: "Lúc đó, dân chúng muốn đại, tiểu tiện thì đấy tự nhiên nứt ra, xong rồi khép lại ", nói theo ngôn ngữ ngày nay thì câu trên có nghĩa là những nơi đại, tiểu tiện phải đươc giữ gìn sạch sẽ. Nhưng trong bản nguyện của Ðại phẩm Bát-Nhã ở trên lại đi xa hơnlý tưởng hoá cho đến không còn có cả cái nạn đại tiện, tiểu tiện nữa. Tại Ấn Ðộ cũng như tại Trung Quốc những thiết bị trong các nơi đại tiện, tiểu tiện rất nghèo nàn và nhơ nhớp: riêng trong các tự việntịnh xá của Phật Giáo những nơi đó mới luôn luôn được giữ gìn sạch sẽ mà thô, điều này trong Luật-tạng chỉ dạy rất cặn kẽ . Ðứng về phương diện văn hoá sử mà nhận xét, bản nguyện này có một ý nghĩa thật thú vị.

Trên đây, tuy chỉ đưa ra hai thí dụ nhưng những biểu hiện của Phật Giáo Ðại Thừa, nhìn qua, tuy có vẻ như không tưởng, song nếu đưa căn bản của nó đặt trước vấn đề hiện thực, thì từ mặt đạo đức, văn hoá dẫn đến một lý tưởng tối cao, thật nó đã bao hàm một ý nghĩa rất sâu xa. Do Ðó, nếu không lý giải được tình huống của văn hoá đương thời thì đối với tư tưởng Phật Giáo (nhất là về phương diện mượn nghệ thuật để biểu hiện) quyết không thể nào hiểu được chân ý của nó. Căn cứ vào hai thí dụ trên đây đại khái ta có thể thấy rõ điều đó (Về điểm này, xin xem thiên thứ ba, tiết mục "Sự triển khai của tư tưởng Bản-nguyện ").

TIẾT THỨ BA: 
KINH ĐIỂN ĐẠI THỪA VỚI SỰ BIỂU HIỆN NGHỆ THUẬT.

Hai thí dụ trên tuy mới chỉ liên quan đến vấn đề xã hội hoặc văn hoá nhưng ngoài điểm đó ra, các kinh điển Ðại Thừa cũng còn muốn dùng sự biểu hiện nghệ thuật để làm cái phương án giải quyết các vấn đề nội bộ của giáo hội Phật Giáo nữa. Về điểm này, theo tôi, tháp Ða-Bảo trong kinh Pháp-Hoa là thí dụ điển hình có ngụ ý ấy.

Lúc Phật đang nói kinh Pháp-Hoa thì đột nhiên từ dưới đất mọc lên một ngôi đại-bảo-tháp và cứ lơ lửng giữa không trung. Trong tháp có toàn bộ xá lợi (di cốt) của Phật Ða-Bảo, và từ trong xá-lợi phát ra âm thanh lớn vui mừng khen ngợi và chứng minh kinh Pháp-Hoa của Phật Thích-Ca. Trong lịch trình kinh Pháp-Hoa, đến đây, nếu coi sự xuất hiện của bảo tháp này là sự trang trí cho đạo tràng Pháp-hoa thì nó có một ý nghĩa rất trọng yếu. Nhưng tôi xin thú thật rằng, lúc đầu tôi đã đọc phẩm Pháp-Hoa này với một cảm nghĩ phân vân, thắc mắc, vì mặc dầu nói đó là xá lợi của Phật Ða-Bảo, song nếu bắt một bộ xương khô làm một việc trọng yếu như vậy (trừ ra đó là đối tượng của Thiền-quán mang ý nghĩa Bảo-thápTam Muội thì không nói, bởi đây là một vần khác ) thì thật là một việc quá vô lý, quá giả tạo. Nhưng sau để ý đến vấn đề văn hoá sử, tôi mới nhận thấy rằng sự hiện diện của tháp Ða-Bảo bao hàm một ý nghĩa giải hoà cho hai chủ trương đó là chủ trương tôn sùng Xá-Lợi và chủ nghĩa lấy Chính-Pháp làm trung tâm.

Khi Phật nhập diệt có di chúc cho A-Nan : "Hãy tự thắp đuốc lên mà đi; y chỉ vào mình chứ đừng y chỉ vào một ai khác, lấy Chính-Pháp làm đuốc, y chỉ vào pháp chứ đừng y chỉ vào nơi nào khác". Sau khi Phật nhập diệt, những lời di chúc đó đã trở thành tinh thần chỉ đạo cho Giáo-Ðoàn, vận mệnh của giáo-đoàn tuỳ thuộc ở sự thực hành chính-pháp, đó là điều tất nhiên. Song cùng với việc đó, cảm tình kính mến đức Phật đã dần dần đưa đến một phong thái tôn sùng Xá-Lợi của Phật, và cuối cùng thậm chí thừa nhận Xá Lợi là một sức linh thiêng thần bí, rồi phát động phong trào xây tới tám vạn bốn nghìn ngôi tháp. Việc làm này, ít ra về hình thức, cũng đã phổ biến hoá Phật Giáo một phần lớn, dù cho người ta chẳng biết đến nghĩa lý căn bản của Phật Giáo, nhưng khi xây tháp cúng dường, lễ bái Xá-Lợi cũng được vô lượng công đức. Dạy cho người ta có lòng tin đó, kết quả, về mặt hình thức, đã tăng thêm thế lực của Phật giáo rất nhiều, điều này tưởng nói, ai cũng biết.

Song, cùng với sự thịnh hành của phong tục lễ bái tháp Xá-Lợi, phương diện khẩn yếu của chủ nghĩa lấy Chính-pháp làm trung tâm, dù chưa thay đổi hẳn nhưng trên thực tế, cũng đã giảm sút rất nhiều. Vì trong việc tuyên truyền Phật Giáo, lấy việc xây cất tháp Xá-Lợi làm việc cấp thiết, còn việc dùng giáo pháp để bồi bổ pháp thân thì lại bị sao lãng, đó là lẽ tất nhiên, khó tránh khỏi. Chính cũng vì thế mà trong giáo-đoàn thuộc các Bộ -phái Phật Giáo lúc bấy giờ đã nảy ra sự tranh luận về việc lễ bái tháp Xá-Lợi. Phía Thượng-toạ-bộ thì như Thuyết-Nhất-Thiết -Hữu-bộ, Pháp-Tạng-bộ v.v..cho rằng lễ bái tháp Xá-Lợi được nhiều quả báo, còn về phía Ðại-chúng-bộ thì như Án-Ðạt-La phái (Chế-Ða-Sơn-Bộ, Bắc-Sơn-Trụ-Bộ)chủ trương rằng lễ bái tháp không được quả báo gì cả. Phái này trước sau vẫn đứng trên lập trường lấy chính pháp làm trung tâm mà phát động phong trào phản đối tập tục lễ bái tháp Xá-Lợi của đương thời. Sự tranh luận này tiếp tục đến Ðại Thừa, trên đại thể, Ðại Thừa thuộc Bát-Nhã hệ vẫn lấy chủ nghĩa Chính-pháp trung tâm làm chỗ tập cước. Như Tiểu phẩm Bát-Nhã nói: "Dù cúng dường Xá-Lợi toàn thế giới cũng không bằng trụ trì, đọc tụng một quyển kinh Duy-Ma thì chủ trương lấy sự cúng dường Xá-Lợi (kinh-Bát-Nhã Tiểu-phẩm, Bảo-pháp Công-Ðức phẩm thứ ba, Thưởng thán Công-đức phẩm thứ 4, kinh Duy-Ma : Pháp Cúng-dường phẩm ). Vấn đề này đã trở thành nguyên nhân của cuộc tranh luận trường kỳ trong giáo hội Phật Giáo. Nếu nói theo ngôn ngữ ngày nay thì : vì muốn cho tinh thần Phật Giáo phổ cập đến mọi tầng lớp dân chúng, nên lấy việc xây cất chùa cảnh, tháp miếu hoặc tổ chức giáo-hội làm đầu, hay nên lấy sự thực hành tinh thần tự thể của Phật Giáo làm đầu? Trên lý luận thì nên lấy vịêc thực hành tinh thần để làm chủ, nhưng trên vấn đề thực tế, nhất là về phương diện dân chúng hoá, thì việc kiến tạo chùa cả, tháp miếu, sùng bái Thánh-địa, thì ít ra cũng trên bề mặt, lại thích hợp với công việc khoáng trương Phật Giáo, mà những người tán thành sự kiện này cũng không phải ít, vì thế mà vấn đề có vẻ rất khó quyết định. Và vấn đề này, ngay trong giáo hội Phật Giáo tại Ấn Ðộ xa xưa cũng là nguyên nhân của nhiều cuộc tranh cãi rồi. Sự điều hoà và thống nhất được vấn đề này là con đườnggiáo hội nên tiến hành. Và ý đồ muốn dùng sự biểu hiện nghệ thuật trang trí để thực hiện sự điều hoà đó chính là tháp Ða-Bảo trong kinh Pháp-Hoa. Ðặc sắc của kinh Pháp-Hoa là ở chỗ muốn điều hoà Ðại Thừa, Tiểu Thừa, thống nhất chuyên môn và thông tục, cho nên đối với vấn đề này, muốn đưa ra con đường thống hợp cả hai chủ trương. Ngôi tháp từ dưới đất nhô lên rồi lơ lửng giữa không trung, tuy nói là tháp Xá-Lợi, nhưng đó hoàn toàn không phải là vật kỷ niệm chết, mà trong đó ngụ một ý nghĩa sinh động cực kỳ linh hoạt. Xá-Lợi của Phật Ða-Bảo được đặt trong tháp tán thán kinh Pháp-Hoa không phải chỉ lấy di cốt làm đối tượng sùng bái, mà trái lại ngụ một ý nghĩa tượng trưng cái chân lý vĩnh viễn. Như việc vị chủ Pháp-Hoa trong tháp Ða-Bảo (đức Phật Ða-Bảo ) cuối cùng đã thỉnh Phật Thích-Ca đã thành Xá-Lợi, mà đã là đệ tử của Phật thì một mặt phải bảo tồn Xá-Lợi, mặt khác, phải cổ xuý Pháp-thân (giáo-pháp-lý-pháp) của Phật, vì chân lý mà di cốt phát đại thanh, kết quả do đó mà được tướng thọ mệnh vô lượng như Phật. Ðó chính là điểm cốt yếu mà kinh Pháp-Hoa dựa vào Xá-Lợi của Phật Ða-Bảo để biểu thị : vì Pháp-thân mà thừa nhận ý nghĩa Xá-Lợi mà có thể phát kiến được ý nghĩa Pháp.

Dĩ nhiên, Pháp-thân thường trụ quan của kinh Pháp-Hoa không phải chỉ là thí dụ, mà thực ra đã được thực thể hoá. Cho nên căn cứ vào ý nghĩa trên đây mà giải thích cái nghĩa đích thực của tháp-Ða-Bảo Phật tuy không phải đã thoả đáng, nhưng dù sao ở đây đưa ra trương hợp tháp Ða-Bảo Phật, ngoài cai ý nghĩa tượng trưng cho giáo-lý thâm diệu ra, đối với các vấn đề thực tế trong nội bộ giáo hội, muốn tìm một phương án qiải quyết, thật ra đã trở thành một tài liệu chủ yếu, và cũng là cái kết quả khổ tâm của hoàn cảnh : đó là điều chúng ta nên thừa nhận.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31303)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26207)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27497)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27875)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26687)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31185)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20241)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22877)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30015)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21539)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20211)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22624)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20726)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30264)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28753)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34689)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44187)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35478)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22516)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21337)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20655)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24740)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37870)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19010)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19300)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21783)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20851)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29497)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35070)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28789)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32584)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26199)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28902)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43107)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34902)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43878)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37848)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21312)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43002)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48987)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39802)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53761)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36801)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40778)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49707)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47290)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27671)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27010)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27205)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24059)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20825)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34296)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22441)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25084)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25800)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22929)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22454)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21730)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23307)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21148)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant