Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận

01 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 20940)
Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận

ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO TƯ TƯỞNG LUẬN
Tác Giả: Kimura Taiken

Hán Dịch: Thích Diễn Bồi - Việt Dịch: Thích Quảng Độ
Xuất Bản: Viện Đại Học Vạn Hạnh 1969 - Phật Học Viện Quốc Tế, USA 1986

MỤC LỤC

Vài Nét Về Tác Giả
THIÊN THỨ NHẤT: ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO TƯ TƯỞNG SỬ
CHƯƠNG THỨ NHẤT
TỔNG LUẬN
Tiết thứ nhất: Địa vị Phật Giáo trong tư trào Ấn Độ.
Tiết thứ hai: Điểm tương đồng giữa tưởng Ấn Độtư tưởng Phật Giáo.
Tiết thứ ba: Đặc tính của tư tưởng Phật Giáo.
CHƯƠNG THỨ HAI
TƯ TRÀO CỦA CÁC BỘ PHÁI TRƯỚC NGÀY ĐẠI THỪA HƯNG KHỞI
Tiết thứ nhất: Nguyên ủy của các Bộ phái.
Tiết thứ hai: Sự bất đồng về lập trường chủ yếu giữa Nguyên thủy Phật giáoBộ phái Phật giáo.
Tiết thứ ba: Phật Đà Quan.
Tiết thứ tư: Hữu tình quan.
Tiết thứ năm: Tu chứng luận.
CHƯƠNG THỨ BA
ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO ĐẾN THỜI ĐẠI LONG THỤ
Tiết thứ nhất: Nguồn gốc và đặc chất của tư tưởng Đại Thừa.
Tiết thư hai: Những kinh điểntư tưởng chủ yếu của Đại Thừa trước thời Long Thụ.
Tiết thứ ba: Phật giáo quan của Long Thụ.
CHƯƠNG THỨ TƯ
ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO TỪ SAU THỜI ĐẠI LONG THỤ ĐẾN THỜI ĐẠI VÔ TRƯỚCTHẾ THÂN
Tiết thứ nhất:Ý nghĩa sự kết tập những kinh điển chủ yếu của Đại Thừa đương thời.
Tiết thứ hai: Các loại kinh mới và lịch trình thành lập.
Tiết thứ ba: Đặc chất tư tưởng của các kinh điển.
Tiết thứ tư: Các kinh điển kể trên với Tiểu Thừa Giáo.
CHƯƠNG THỨ NĂM
PHẬT GIÁOTHỜI ĐẠI VÔ TRƯỚCTHẾ THÂN
Tiết thứ nhất: Tổng luận.
Tiết thứ hai: Phật giáo thuộc Vô Trước, Thế Thân (Du Già Phật Giáo).
Tiết thứ ba: Như Lai Tạng_Phật giáo của Thế Thân.
CHƯƠNG THỨ SÁU
PHẬT GIÁOTHỜI ĐẠI VÔ TRƯỚCTHẾ THÂN (THẾ KỶ VI-VIII)
THIÊN THỨ HAI: ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO LÝ LUẬN
CHƯƠNG THỨ NHẤT
BẢN CHẤT CỦA TÔN GIÁO VỚI PHẬT GIÁO
Tiết thứ nhất: Sự quan hệ giữa lý luậnthực tiễn trong Phật Giáo.
Tiết thứ hai: Phật Giáo có phải là tôn giáo không.
Tiết thứ ba: Phật Giáo với sự thực tôn giáo.
Tiết thứ tư: Bản chất của những đòi hỏi tôn giáo.
Tiết thứ năm: Sự mong muốn một sự sống vô hạn và yêu cầu giải thoát.
Tiết thứ sáu: Sự thỏa mãn yêu cầu tôn giáo với nhất tâm.
CHƯƠNG THỨ HAI
GIẢI THOÁT LUẬN
Tiết thứ nhất: Gợi ý.
Tiết thứ hai: Ý nghĩa và các giải thoát quan Ấn Độ.
Tiết thứ ba: Đặc chất của giải thoát quan Phật Giáo.
CHƯƠNG THỨ BA
ĐẶC CHẤT PHẬT GIÁO TẠI BA QUỐC GIA
Tiết thứ nhất: Nguyên thủy Phật giáoBộ phái Phật giáo.
Tiết thứ hai: Đặc chất của Đại Thừa Phật Giáo.
Tiết thứ ba: Đặc chất của Phật Giáo Trung QuốcPhật Giáo Nhật Bản.
CHƯƠNG THỨ TƯ
TINH THẦN CỦA ĐẠI THỪA
Tiết thứ nhất: Tiểu Thừa là gì?
Tiết thứ hai: Chủ nghĩa tinh thần của Đại Thừa.
Tiết thứ ba: Đứng trên lập trường hình thức để quan sát Tiểu ThừaĐại Thừa.
Tiết thứ tư: Sự bất đồng về nội dung.
Tiết thứ năm: Chân không diệu hữu với lập trường của các kinh điển Đại Thừa.
Tiết thứ sáu: Thực hiện tinh thần Đại Thừa.
CHƯƠNG THỨ NĂM
CHÂN NHƯ QUAN CỦA PHẬT GIÁO
(Đặc biệt lấy Bát Nhã làm trung tâm)
Tiết thứ nhất: Lời tựa.
Tiết thứ hai: Sự triển khai của tư tưởng Chân Như đến thời kỳ Bát Nhã.
Tiết thứ ba: Lập trường toàn bộ của Bát Nhã.
Tiết thứ tư: Chân như quan của Bát Nhã.
CHƯƠNG THỨ SÁU
THIỀN VÀ Ý NGHĨA TRIẾT HỌC
Tiết thứ nhất: Ý nghĩa của Thiền.
Tiết thứ hai: Các loại Thiền.
Tiết thứ ba: Tự ngã là gì?
Tiết thứ tư: Cái ta tuyệt đối.
Tiết thứ năm: Phương pháp thực hiện Đại-ngã và Thiền.
Tiết thứ sáu: Đặc sắc của Đạt Ma Thiền.
CHƯƠNG THỨ BẢY
SỰ KHAI TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO VÀ SỰ KHẢO SÁT VỀ THIỀN
Tiết thứ nhất: Địa vị của Thiền trong Phật Giáo.
Tiết thứ hai: Thiền quán: Mẫu thai của giáo lý.
Tiết thứ ba: Nội dung của Thiền.
Tiết thứ tư: Sự phổ biến hóa nội dung Thiền quán.
Tiết thứ năm: Thiền quánphương pháp nhận thức.
CHƯƠNG THỨ TÁM
TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO VỚI VĂN HÓA SỬ
Tiết thứ nhất: Đức Phật với tư trào thời đại.
Tiết thứ hai: Kinh điển Đại Thừa với bối cảnh văn hóa sử.
Tiết thứ ba: Kinh điển Đại Thừa với sự biểu hiện nghệ thuật.
CHƯƠNG THỨ CHÍN
KINH PHÁP HOA
(Đại biểu cho đạo Bồ Tát)
Tiết thứ nhất: Ý nghĩa sự xuất hiện kinh Pháp-Hoa.
Tiết thứ hai: Sự tổ chức của kinh Pháp-Hoa.
Tiết thứ ba: Quan niệm chủ yếu của kinh Pháp-Hoa.
Tiết thứ tư: Quyển Hội Tam Quy Nhất, Thụ Ký Thành Phật (quan niệm chủ yếu của Tích Môn).
Tiết thứ năm: Phật Pháp vĩnh viễn (tư tưởng trung tâm của Bản Môn)
Tiết thứ sáu: Đạo Bồ Tát: Pháp thân hoạt động cụ thể (lấy kinh Quan Âm làm trrung tâm).
THIÊN THỨ BA: ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO THỰC TIỄN LUẬN
CHƯƠNG THỨ NHẤT
Ý NGHĨA ĐẠO ĐỨC
Tiết thứ nhất: Gợi đề.
Tiết thứ hai: Ý nghĩa đạo đức trong Phật Giáo Nguyên Thủy.
Tiết thứ ba: Đại Thừa giáo tổng hợp.
Tiết thứ tư: Chân Không Diệu Hữu.
Tiết thứ năm: Bất trụ Niết Bàn.
Tiết thứ sáu: Kết luận.
CHƯƠNG THỨ HAI
QUAN NIỆM VỀ NGHIỆP CỦA PHẬT GIÁO VỚI TỰ DO Ý CHÍ
Tiết thứ nhất: Phạm vi của vấn đề.
Tiết thứ hai: Căn cứ của tính cáchý chí tự do.
Tiết thứ ba: Tư tưởng Đại Thừa với những quan niệm trên.
CHƯƠNG THỨ BA
CHỦ NGHĨA TỰ LỰCCHỦ NGHĨA THA LỰC
Tiết thứ nhất: Tự lựcTha lực của ngoại giáo.
Tiết thứ hai: Sự triển khai của thuyết Tự lựcTha lực trong Phật Giáo.
Tiết thứ ba: Bản chất hoạt động của sinh mệnh.
Tiết thứ tư: Yêu cầu vô hạn của sinh mệnh với ý thức tôn giáo.
Tiết thứ năm: Sự thực hiện sinh mệnh vô hạn với thuyết tự lựctha lực.
Tiết thứ sáu: Sự quan hệ giữa tự lựctha lực.
Tiết thứ bảy: Phương pháp điều hòa giữa tự lựctha lực.
CHƯƠNG THỨ TƯ
Ý NGHĨ CUỘC ĐỜI
Tiết thứ nhất: Yêu cầu xác lập nhân sinh quan.
Tiết thứ hai: Tiêu chuẩn phê phán giá trị cuộc đời.
Tiết thứ ba: Chủ nghĩa khoái lạc và chủ nghĩa yếm thế.
Tiết thứ tư: Hai phương diện mâu thuẫn của cuộc đời.
Tiết thứ năm: Sự mâu thuẫn của cuộc đời với quan niệm khổ.
Tiết thứ sáu: Giá trị cuộc đời theo quan niệm Phật Giáo.
Tiết thứ bảy: Ý nghĩa cuộc sinh hoạt với quan niệm khổ.
Tiết thứ tám: Văn hóa dùng phương pháp tiêu cực để khắc phục khổ.
Tiết thứ chín: Xét về ý nghĩa văn hóa theo quan niệm Phật Giáo
Tiết thứ mười: Sự cải tạo tâm với bạt khổ dữ lạc.
Tiết mười một: Sự ức chế những cảm giác tham cầu với sự diệt khổ.
Tiết mười hai: Đạo Bồ Tát: phương pháp diệt khổ.
Tiết mười ba: Tinh thần căn bản của đạo Bồ Tát.
Tiết mười bốn: Bồ Tát đạo với Tịnh Độ
Tiết mười lăm: Thế giới lý tưởngTịnh Độ.
Tiết mười sáu: Sự kiến thiết Tịnh Độluân hồi.
Tiết mười bảy: Kết luận.
CHƯƠNG THỨ NĂM
SỰ TRIỂN KHAI CỦA TƯ TƯỞNG BẢN NGUYỆNÝ NGHĨA ĐẠO ĐỨCVĂN HÓA CỦA NÓ
Tiết thứ nhất: Lời mở đầu.
Tiết thứ hai: Sự khai triển của tư tưởng bản nguyện (Lấy số nguyện làm tiêu chuẩn).
Tiết thứ ba: Ý nghĩa đạo đức, văn hóatôn giáo trong tư tưởng bản nguyện.
CHƯƠNG THỨ SÁU
TỊNH ĐỘ QUAN NIỆM, TỊNH ĐỘ THỰC TẠITỊNH ĐỘ SINH THÀNH
Tiết thứ nhất: Thiền ĐịnhTịnh Độ.
Tiết thứ hai: Điểm lợi, hại của thuyết quan niệm và thuyết thực tại.
Tiết thứ ba: Thuyết sinh thành thống hợp hai thuyết trên.
CHƯƠNG THỨ BẢY
HIỆN THỰCTỊNH ĐỘ
Tiết thứ nhất: Hai sứ mệnh của Phật Giáo.
Tiết thứ hai: Lý tưởng Tịnh Độ kết hợp hai sứ mệnh lớn.
Tiết thứ ba: Quán chiếu Tịnh Độ.
Tiết thứ tư: Tha phương Tịnh Độ.
Tiết thứ năm: Tịnh Độ tương lai trên cõi này.
Tiết thứ sáu: Kết luận.
CHƯƠNG THỨ TÁM
Ý NGHĨA CHÍNH TRỊ
Tiết thứ nhất: Căn cứ chính trị quan của Phật Giáo.
Tiết thứ hai: Nguồn gốc Quốc Gia.
Tiết thứ ba: Chính trị đối với các quốc gia đối lập
Tiết thứ tư: Quốc gia lý tưởngchính đạo.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31319)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26212)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27506)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27877)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26693)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31190)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20246)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22885)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30020)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21543)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20219)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22627)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20736)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30273)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28756)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34695)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44195)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35487)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22518)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21342)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20660)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24746)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37881)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19015)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19306)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21784)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20853)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29502)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35085)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28799)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32588)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26200)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28910)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43114)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34912)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43888)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37852)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21314)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43008)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48995)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39813)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53769)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36808)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40782)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49720)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47294)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27675)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27013)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27213)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24063)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20834)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34299)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22448)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25089)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25817)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22933)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22459)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21738)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23310)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21154)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant