Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tổng Mục Lục

19 Tháng Năm 201000:00(Xem: 7882)
Tổng Mục Lục
THỦ LĂNG NGHIÊM KINH TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
Pháp Sư Thích Từ Thông


Mục Lục Tập 1

Lời nói đầu
Chương 01
Đề kinh
Nhơn duyên và thời điểm Phật nói kinh Thủ Lăng Nghiêm
Chương 02
Tâm là căn bản của Bồ Đề Niết Bàn và cũng là căn bản của luân chuyển sanh tử
Ông A Nan cho rằng tâm ở trong thân
Ông A Nan cho rằng tâm ở ngoài thân
Ông A Nan cho rằng tâm núp sau con mắt
Ông A Nan cho rằng nhắm mắt thấy tối là tâm ở trong thân
Ông A Nan cho rằng sự suy nghĩ hợp với chỗ nào thì tâm liền có ở chỗ đó
Ông A Nan cho rằng tâm ở chặng giữa
Ông A Nan cho rằng tâm là cái không dính dáng vào đâu cả
Luân hồi sanh tử không phải là hiện tượng họa gởi tai bay. Bồ Đề Niết Bàn không phải là cảnh giới siêu nhiên do đấng siêu nhân nào ban tặng.
Lại gạn hỏi cái tâm
Tâm thì phải có thể tánh, không thể tánh không phải là tâm
Cái tánh thấy của mắt chỉ là hiện lượng
Gạn hỏi nghĩa khác trần nhằm chỉ rõ hiện tượng vọng tưởng diệt sanh. Ví dụ chủ và hư không để khai thị bản thể chơn tâm thường trú
Chương 03
Trong thân thể vô thường sanh diệt còn có cái thường bất sanh bất diệt
Rằng ngược xuôi chỉ là sự áp đặt chủ quan, một ý thức chấp mắc
Lựa bỏ tâm vương víu cảnh duyên để chỉ tánh thấy không chỗ trả về
Vật là đối tượng phân biệt của tâm. Tâm biểu hiện qua tánh thấy là chủ thể phân biệt vật
Tánh thấy không lớn nhỏ đứt nối chỉ do tiền trần ngăn ngại mà thôi
Tánh thấy và vật bị thấy vốn là tâm tánh bồ đề nhiệm mầu sáng suốt
Không có cái nào là tánh thấy
Tất cả cái nào cũng là tánh thấy
Bồ Tát Văn Thù cầu Phật thương xót… Phật dạy: Tánh thấy không thể đặt vấn đề: "là" hay "không là".
Tánh thấy rời tất cả tướng, nhưng nó không ngoài tất cả Pháp. Giáo lý nhơn duyên vẫn chưa là đệ nhất nghĩa. Thuyết tự nhiên là một nhận thức sai lầm chơn lý vũ trụ.
Do nhận thức sai lầm khiến cho con người bỏ mất bản tâm thanh tịnh, bản giác thường trú của mình.
Tánh thấy ngoài hai nghĩa: Hòa hợp và không hòa hợp
Bốn khoa bảy đại vốn là hiện tượng biểu hiện từ Như Lai tàng
Năm ấmhiện tượng biểu hiện từ Như Lai tàng:
Sắc ấm
Thọ ấm
Tưởng ấm
Hành ấm
Thức ấm
Sáu nhậphiện tượng biểu hiện từ Như Lai tàng:
Nhãn nhập
Nhĩ nhập
Tỷ nhập
Thiệt nhập
Thân nhập
Ý nhập
Mười hai xứhiện tượng biểu hiện từ Như Lai tàng.
Sắc và kiến
Thanh và thính
Hương và khứu
Vị và thường
Xúc và thân
Pháp và ý
Chương 03 Tiếp Theo
Mười tám giớihiện tượng biểu hiện từ Như Lai tàng.
Nhãn thức giới
Nhĩ thức giới
Tỷ thức giới
Thiệt thức giới
Thân thức giới
Ý thức giới
Bảy đại là hiện tượng biểu hiện từ Như Lai tàng.
Địa đại hoàn nguyên
Thủy đại hoàn nguyên
Hỏa đại hoàn nguyên
Phong đại hoàn nguyên
Không đại hoàn nguyên
Kiến đại hoàn nguyên
Thức đại hoàn nguyên
Ông A Nanđại chúng tán dương Phật, phát nguyện và trình Phật những điều tâm đắc của mình.

Mục Lục Tập 2

Chương 04
Phật thuyết minh tánh của các đại vốn không ngăn ngại gì nhau; nhằm khai thị chân lý: Sắc, không, không sắc
- Phật chỉ nguồn gốc vọng tưởng của hiện tượng tâm lý
- Khai thị nguồn gốc duyên khởi của hiện tượng vật chất
- Phật dạy rõ về ba tướng tương tục: Thế giới chúng sanhnghiệp lực
Thế giới tương tục
Chúng sanh tương tục
Nghiệp quả tương tục
Tóm kết: Giác không sanh mê, thất đại dung được nhau mà không có gì trở ngại
Giác không sanh mê
Lại nói rõ vấn đề các đại có thể dung nhau
Khiển trách chúng sanh bội giác hiệp trần và khai thị phương pháp bội trần hiệp giác
Bội giác hiệp trần
Bội trần hiệp giác
Phật khai thị Như Lai tàng rời tất cả tướng là tất cả pháp
Như Lai tàng rời tất cả tướng
Như Lai tàng là tất cả pháp
Dùng Phật nhãn nhìn hiện tượng vạn pháp không có vấn đề là hay không là trong Như Lai tàng bản thể chơn như mầu nhiệm.
Mê vọng không có nguyên nhân hết mê là Bồ Đề (giác)
Lại rơi vào nhận thức đối đãi của thuyết nhân duyêntự nhiên.
Phật chỉ hai nghĩa quyết định.
- Ông A Nan trần thuật chỗ thâm ngộ và thỉnh vấn tu giải thoát.
Nghĩa quyết định thứ nhất
Sự tác dụng của sắc tâm vô thỉ
Khai thị về năm thứ ô trược
Dựa vào nhân tu mà suy biết quả sở chứng
Nghĩa quyết định thứ hai
Trắc nghiệm sự điên đảo ở căn hay ở trần để tìm mối manh mở gút
Căn cảnh là nguồn gốc của sự buộc ràng. Tháo gỡ buộc ràng hãy tìm một căn thù thắng nhất
Sắc, không tác dụng lẫn nhau, phản ánh ra căn trần thành năng sở
Vọng năng sanh sở làm hạn chế tánh giác minh.
Lục căn toàn khuyết tri kiến vẫn không thêm bớt
Phật bảo đánh chuông để nghiệm xét tánh nghe của nhĩ căn là thường trú
Ông A Nan nghi ngờ kiến văn giác tri không có tự thể
Khai thị tánh nghe của nhĩ căn là thường trú
Chương 05
Hiểu biết chồng thêm hiểu biết là gốc rễ của vô minh. Hiểu biết vạn pháp đúng như thật là nhân tố của Niết bàn hiện tại.
Ông A Nan lại hỏi vấn đề mở gút
Khai thị chân lý vốn không hai và Phật Phật đạo đồng
Căn trần cùng một gốc. Cột mở không hai nguồn
Phật tóm lược ý thú của những đoạn kinh trên qua bài văn trùng tụng
Một cái khăn mà sáu lần cột thì thành sáu gút. Mở hết sáu gút một cũng không còn.
Nguyên do của một sáu dị đồng
Cột gút có thứ lớp thì mở phải có trước sau
Quả vịthấp cao, giải thoát giống nhau không khác mấy. Căn trần thức giới thất đại đều là dữ kiện chứng viên thông.
Phật hỏi đại chúng về nhân duyên ngộ đạo, và dữ kiện chứng đắc viên thông.
1. Do thanh trần được viên thông
2. Do sắc trần được viên thông
3. Do hương trần được viên thông
4. Do vị trần được viên thông
5. Do xúc trần được viên thông
6. Do pháp trần được viên thông
7. Do nhãn căn được viên thông
8. Do tỷ căn được viên thông
9. Do thiệt căn được viên thông
10. Do thân căn được viên thông
11. Do ý căn được viên thông
12. Do nhãn thức được viên thông
13. Do nhĩ thức được viên thông
14. Do tỷ thức được viên thông
15. Do thiệt thức được viên thông
16. Do thân thức được viên thông
17. Do ý thức được viên thông
18. Do hỏa đại được viên thông
19. Do địa đại được viên thông
20. Do thủy đại được viên thông
21. Do phong đại được viên thông
22. Do không đại được viên thông
23. Do thức đại được viên thông
24. Do kiến đại được viên thông
Chương 06
Do nhĩ căn được viên thông
Bồ Tát Quán Thế Âm trần thuật pháp tu chứng của mình
Do từ tâm Bồ Tát Quán Thế Âm hiện 32 ứng thân
Do bi tâm Bồ Tát Quán Thế Âm thành tựu 14 đức vô úy
Quán Thế Âm có 4 đức nhiệm mầu không thể nghĩ bàn
Phật bảo Văn thù so sánh chọn căn ưu việt nhất
- So sánh sự ưu khuyết của sáu trần, năm căn, sáu thức và bảy đại
Nhược điểm của sáu trần
Nhược điểm của năm căn
Nhược điểm của sáu thức
Nhược điểm của bảy đại
Sự ưu việt của nhĩ căn
- Sự chuyển biến tốt sau khi nghe và nhận thức tánh ưu việt của nhĩ căn
Phật khai thị về ba môn vô lậu học và bốn điều cơ bản xuất trần
Ba môn vô lậu học
Bốn điều cơ bản xuất trần
Đoạn tâm dâm dục
Trừ tâm sát sanh
Dứt tâm thâu đạo
Bỏ tâm vọng ngữ

Mục Lục Tập 3

Chương 07
1. Phật khai thị về hiệu năng của Mật giáo
2. Phật tuyên nói Thủ Lăng Nghiêm tâm chú
3. Sự lợi ích của Thủ Lăng Nghiêm chú với mọi giai tầng xã hội
4. Hỏi về cấp bậc và địa vị trên đường tu chứng
5. Đức Phật chỉ rõ hai nguyên nhân điên đảo vọng chấp về thế giớichúng sanh trước khi giải đáp vấn đề địa vị trên đường tu chứng.
Chương 08
1.Phật dạy ba món tiệm thứ
2. Các địa vị trong tiến trình tu chứng
3.Kinh Thủ Lăng Nghiêm có nhiều tên gọi
4. Những mối nghi ngờ sâu sắc có tính phổ biến được Phật dạy bày.
5. Do những tập nhân bất thiện tự chiêu cảm các ác quả khổ đau.
6. Sáu thứ khổ báo là kết quả của bất thiện nghiệp phát xuất từ lục cănlục thức của con người.
7. Nói về các dư báo sau khi ra khỏi địa ngục
8. Mười thứ Tiên do tu Dị nhân kết thành Dị quả
9. Trời Dục giới
Chương 09
1. Trời Sắc giới
2. Trời Vô Sắc giới
3. Bốn loài A Tu La
4. Tu hành chỉ là một phương tiện để diệt vong qui nhơn
5. Trên bước đường tu phải cảnh giác các hiện tượng khuấy nhiễu của ma.
6. Những hiện tướng thuộc phạm vi Sắc ấm
7. Những hiện tướng thuộc phạm vi Thọ ấm
8. Những hiện tướng thuộc phạm vi Tưởng ấm
Chương 10
1. Những nhận thức sai lầm thuộc phạm vi Hành ấm
2. Những nhận thức sai lầm thuộc phạm vi Thức ấm
3. Phần lưu thông
Phụ Lục
QUẢ VÔ THƯỢNG NIẾT BÀN của Như Lai chỉ là kết quả của quá trình đấu tranh với dục vọng và chiến thắng hoàn toàn bọn giặc cướp phiền não vô minh.
1. Muốn hiểu Niết Bàn trước hết cần điều chỉnh những quan niệm ngộ nhận về Niết bàn.
2. Hiểu đúng nghĩa Niết bàn mới tìm thấy và biết được Niết bàn.
3. Niết bàn không phải là một cảnh giới dành để cho một hạng người.

Nguồn: Tu Viện Quảng Đức
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19688)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23950)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41206)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19684)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23973)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21741)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23291)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27490)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26545)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29303)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33174)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20179)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25759)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20902)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31297)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38546)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21417)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44235)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29809)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42182)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22128)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45732)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32102)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23946)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24377)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29240)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33902)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27673)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32117)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21056)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28838)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21560)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28053)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22057)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21419)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19485)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19457)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19822)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19231)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29165)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20607)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28272)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23640)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33161)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31829)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21363)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39607)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21542)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19362)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26368)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24809)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21745)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22368)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29123)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22550)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20462)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23506)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21229)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35297)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24538)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant