Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm Tuyên Chiếu (Ph 9)

21 Tháng Năm 201000:00(Xem: 6290)
Phẩm Tuyên Chiếu (Ph 9)

LƯỢC GIẢNG
KINH PHÁP BẢO ĐÀN

Hoà Thượng Tuyên Hoá Giảng tại Vạn Phật Thánh Thành Hoa Kỳ

 

Phẩm Tuyên Chiếu Đệ Cửu

 

Niên hiệu Thần Long năm đầu, vào ngày rằm Thượng ngươn, Tắc Thiên Hoàng Thái HậuTrung Tông Hoàng Đế ra lời chiếu rằng: 

"Trẫm thỉnh An, Tú nhị vị Đại sư vào cung đặng cúng dường, mỗi khi rảnh việc thì nghiên cứu về Nhất thừa. Nhưng hai Sư đều nhượng rằng: ‘Ở phương NamHuệ Năng Thiền sư được mật thọ y pháp của Hoằng Nhẫn Đại sư. Ấy là người truyền tâm ấn của Phật. Vậy nên thỉnh người mà hỏi Đạo.’ Nay sai nội thị là Tiết Giản mang chiếu nghinh thỉnh, xin Tổ Sư từ bi niệm tình mau đến Kinh-đô."

Giảng:

Thần Long là niên hiệu của Đường Trung Tông, thượng nguyên nhựt tức là tiết nguyên tiêu ngày mười lăm tháng giêng. Ngày mười lăm tháng bảy gọi là Trung nguyên nhựt. Võõ Tắc Thiên là nữ Hoàng đế đời Đường, rất sùng tínủng hộ Phật giáo, nhưng vị nữ Hoàng đế này không có giữ gìn quy củ, bất cứ việc gì bà cũng dám làm, nhưng bà lại có lòng tin đối với Phật giáo vì thế bà đều thỉnh các Đại đức Cao Tăng đương thời vào hoàng cung cúng dường.

Trung Tông là con của Võõ Tắc Thiên, lên ngôi không bao năm, Võõ Tắc Thiên liền biếm chức cho làm Lỗ Lăng Vương, và tự mình tức vị, lên làm Hoàng đế. Bà hạ chiếu thư, viết:

–Trẫm đã cung thỉnh Huệ An Thiền sư ở Tung Nhạc và Bắc Tông Thần Tú Đại sư vào hoàng cung cúng dường. Sau khi xử lý muôn ngàn việc quốc sự nặng nề, giờ rảnh ra trẫm thường nghiên cứu pháp môn đốn giáo. Nhưng hai vị Pháp sư này đều nhường nói: "Đạo đức của chúng tôi không bằng Đại sư Huệ Năng ở Quảng Đông Nam phương. Huệ Năng Đại sư là người mật thọ y bát của Ngũ Tổ Đại sư Hoằng Nhẫn, là người kế thừa chân chánh Pháp môn truyền Phật tâm ấn, vì vậy nên mời Huệ Năng Đại sư đến học hỏi." Và vì thế mà nay trẫm phái nội thị trong cung (tức Thái giám trong cung), tên gọi Tiết Giản, mang chiếu thư của Hoàng đế đến cung thỉnh Đại sư. Kính mong Đại sư thương xót chúng sanh mau chóng đến Kinh đô – Trường An.

Sư dâng sớ cáo bịnh xin từ, nguyện trọn đời ở chốn rừng non.

Tiết Giản bạch: "Ở Kinh-thành các vị Thiền đức đều nói rằng: Muốn đặng tâm ngộ Đại Đạo tất phải ngồi thiền tập định. Nếu chẳng nhờ thiền định mà đặng giải thoát, thì điều ấy chưa từng có, chẳng biết lời dạy của Tổ Sư như thế nào?"

Giảng:

Lục Tổ Đại sư viết một biểu chương, cũng chính là thư trả lời: "Tôi nhiều bệnh." Kỳ thực Lục Tổ Đại sư không có bệnh, đây chỉ là nói lời phương tiện, không phải nói lời vọng ngữ, tại sao vậy? Vì Lục Tổ Đại sư không muốn yết kiến Hoàng đế, nhất là không muốn yết kiến nữ Hoàng đế, huống chi bà lại không có chú ý đến việc quy củ, lại không giữ gìn giới luật, cho nên không vui gặp bà. Nhưng Lục Tổ không thể nói: "Bà là nữ Hoàng đế, tôi là Tổ Sư, tôi không cần phải yết kiến nữ Hoàng đế," cho nên cáo bịnh, thoái thác nói: "Tôi đã lớn tuổi, lại có nhiều bệnh, tôi nguyện suốt đời ở nơi rừng núi."

Đây là phẩm thứ chín, trong bổn chú thích của Đinh Phúc Bảo nói: Đây là Phẩm Hộ Pháp, là điều sai lầm, nên là "Phẩm Tuyên Chiếu." Tuyên tức là Hoàng đế thỉnh Lục Tổ Đại sư vào hoàng cung cúng dường, Chiếu tức là chiếu thư; tuyên đọc chiếu thư của Hoàng đế thỉnh Lục Tổ Đại sư đến Kinh đô, không thể gọi là Phẩm Hộ Pháp.

Tiết Giản nói:

–Các vị Đại đức ở Kinh Thành đều nói như thế này, nếu hành giả muốn hiểu rõ đạo pháp cần phải tọa thiền, tu tập định lực. Nếu không phải do thiền địnhđược giải thoát, đây là điều không bao giờ có. Con không biết Tổ Sư Ngài thuyết pháp như thế nào?

Đại sư nói: "Đạo do tâm mà ngộ, đâu phải do ngồi. Kinh nói: ‘Nếu nói Như Lai hoặc nằm hoặc ngồi là hành tà đạo. Bởi cớ sao? Không từ chỗ nào mà lại, cũng không từ chỗ nào mà đi.’ Không sanh không diệt là tánh Như Lai thanh tịnh thiền. Các pháp đều vắng lặng trống không là tánh Như Lai thanh tịnh tọa. Thế là cứu cánh không chứng đắc, hà huống là ngồi!"

Giảng:

Lục Tổ Đại sư tuy không biết chữ, nhưng những lời Ngài giảng ra, người tầm thường khó có thể ngộ đến. Ngài nói:

–Đạo là từ trong tâm ngộ, sao có thể chỉ là ngồi? Chỉ ngồi thì không thể được. Hiểu rõ, khai ngộ đạo lý Phật pháp, gọi là "giải." Ngồi là hành, nếu chỉ hành mà không giải, đó là ngu si. Nếu chỉ giải mà không hành, đó là khẩu đầu thiền. Cho nên hiểu rõ xong, thân cần phải nỗ lực thực hành, chớ không phải suốt ngày ngồi hoài, ngồi mấy chục năm, một chút đạo lý cũng không hiểu, tâm mình cũng không thể khai ngộ.

Kinh Kim Cang nói: "Nếu có người nói Như Lai, như đến, như đi, như ngồi, như nằm, thì người này không hiểu nghĩa của Ta nói. Tại sao vậy? Như Laivô sở tùng lai cũng vô sở khứ, cho nên gọi là Như Lai." Nếu nói Phật là ngồi hoài hoặc nằm hoài, đó là bàng môn ngoại đạo. Tại sao vậy? Vì Phật là vô sở tùng lai, cũng là vô sở khứ, Ngài cũng không sanh cũng không diệt, đó mới là Như Lai thanh tịnh thiền. Tất cả pháp vốn không tịch, đây là Như Lai thanh tịnh tọa. Cứu cánh thì không có chỗ chứng đắc, sao lại muốn ông ngồi hoài? Thường ngồi hoài cũng là một loại chấp trước.

Tiết Giản bạch: "Đệ tử về kinh, Chúa-thượng ắt hỏi. Xin Tổ Sư từ bi dạy chỗ yếu chỉ về tâm tánh, đặng truyền tấu lại lưỡng cung (Thái hậu và vua) cùng các vị học Đạo trong Kinh thành. Tỷ như một ngọn đèn mồi ra trăm ngàn ngọn, các chỗ tối đều sáng, sáng sáng không cùng."

Sư nói: "Đạo không sáng tối, sáng tối là cái nghĩa thay thế. Sáng sáng không cùng, cũng là có cùng. Hai cái tối sáng đối đãi nhau mà lập ra cái tên, cho nên kinh Tịnh Danh nói: ‘Pháp không có chi sánh, không có gì tương đối được.’"

Giảng:

Tiết Giản nói: 

–Khi đệ tử hồi kinh, Hoàng đế nhất định hỏi đệ tử, kính mong Đại sư phát đại từ bi, chỉ thị đạo lý quan trọng dùng tâm ấn tâm, khiến con trở về bẩm cáo Hoàng đế, và để cho những người học đạo trong Kinh thành đều biết. Giống như một ngọn đèn có thể châm mồi trăm ngàn ngọn đèn, khiến cho chỗ hắc ám cũng được quang minh, khiến cho ánh sáng quang minh không cùng không tận.

Lục Tổ Đại sư nói:

–Bổn thể của Đạo, cũng chính là bổn thể của tánh, không có minh, cũng không có ám, minh ám chỉ là ý nghĩa đối đãi. Minh đến thì ám đi, ám đến thì minh đi, minh thay thế cho cái ám này, ám thay thế cho cái minh này. Ông nghe nói "Minh minh vô tận," đó cũng là hữu tận. Tại sao vậy? Vì nó là pháp đối đãi, minh đối với ám, có đối đãi thì có hữu tận. Cho nên Kinh Duy Ma Cật nói: "Pháp thì không thể so sánh, nó là tuyệt đãi mà không phải tương đãi, là tuyệt đối mà không phải tương đối."

Tiết Giản bạch: "Sáng tỷ như trí huệ, tối tỷ như phiền não. Người tu hành nếu như không lấy trí huệ mà chiếu phá phiền não, thì nhờ đâu mà ra khỏi chỗ vô thủy sanh tử?"

Sư nói: "Phiền não tức là Bồ-đề, chẳng phải hai và chẳng phải khác nhau. Lấy trí huệ mà chiếu phá phiền não, là chỗ thấy hiểu của hàng Nhị thừa, là cái căn cơ của xe nai, xe dê. Bực đại trí thượng căn chẳng phải làm như vậy."

Giảng:

Tiết Giản nói: 

–Minh là ví dụ cho trí huệ, ám ví dụ cho phiền não. Tất cả người học đạo, nếu không dùng trí huệ phá tan tất cả phiền não, thì sanh tử từ vô thủy kiếp cho đến hôm nay nương vào cái gì mà có thể xuất ly?

Lục Tổ Đại sư trả lời:

–Phiền não tức là Bồ đề giác tánh, ông không nên đem phiền nãoBồ đề phân chia làm hai thứ, chúng nó thì không có sai khác. Nếu ông muốn dùng trí huệ chiếu tan phiền não, đây là kiến giải của Nhị thừa – Thinh văn, Duyên giác, không phải là nhứt Phật thừa của Đại thừa. Thinh văn Duyên giác giống như cơ duyên của xe dê, xe nai, mà trí huệ tối thượng thừachúng sanh căn tánh tối thượng, phương pháp tu hành của họ hoàn toàn không phải như thế.

Tiết Giản bạch: "Chỗ thấy hiểu của bực Đại thừa như thế nào?"

Sư nói: "Sáng và không sáng, người phàm thấy có hai, còn người trí rõ thông, thấy cái tánh sáng và không sáng chẳng phải là hai. Cái tánh không hai chính là Thật tánh. Cái Thật tánh ở nơi phàm phu mà chẳng bớt, ở nơi Hiền Thánh mà chẳng thêm, ở nơi phiền não mà chẳng rối, ở nơi cảnh thiền định mà không lặng, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng lại chẳng đi, chẳng phải ở giữa, ở trong hay ở ngoài, chẳng sanh chẳng diệt; tánh và tướng đều như như, thường trụ, không dời đổi. Cho nên gọi cái Thật tánh là Đạo."

Giảng:

Tiết Giản nói:

–Cái gì là kiến giải Đại thừa?

Lục Tổ Đại sư trả lời:

–Minh và vô minh, kẻ phàm phu xem đó là hai loại khác nhau, nhưng người có trí huệ thì hiểu rõ tánh của nó không có hai thứ, là tánh vô nhị, đó là Thực tánh. Cái gì gọi là Thực tánh? Chính là trong chúng sanh ngu muội, nó không giảm; trên địa vị người thánh nhân, nó cũng không tăng. Trong cảnh giới phiền não nó không loạn, lúc thiền định nó cũng không có tịch tĩnh. Nó là cũng động cũng tịnh, cũng tịnh cũng động, không đoạn cũng không thường, không đến cũng không đi, không ở chính giữa, không ở bên trong, không ở bên ngoài, không sanh không diệt, tánh cũng như như, tướng cũng như như, tánh tướng đều là nhứt thể. Nó là thường trụ không động, vì thế đặt tên cho nó là "Đạo."

Tiết Giản bạch: "Đại sư nói cái lý chẳng sanh chẳng diệt, trong đó có chỗ nào khác với cái thuyết của ngoại đạo chăng?"

Sư nói: "Cái sở thuyết của ngoại đạo nói rằng chẳng sanh chẳng diệt, là đem cái diệt dứt cái sanh, lấy cái sanh mà bày rõ cái diệt, nhưng diệt mà cũng như chẳng diệt, sanh mà nói chẳng sanh. Còn ta nói chẳng sanh chẳng diệt, nghĩa là cái tánh Bổn-lai vốn tự không sanh, nay cũng chẳng diệt, cho nên cái thuyết sanh diệt của ta chẳng giống với cái thuyết sanh diệt của ngoại đạo. Ông muốn biết chỗ yếu chỉ của tâm, thì đừng suy tính đến cả thảy các điều thiện ác. Như thế, tự nhiên đặng vào cái tâm thể trong sạch, phẳng bằng vắng lặng, diệu dụng vô cùng."

Giảng:

Tiết Giản hỏi: 

–Đại sư thuyết bất sanh bất diệt, cùng với ngoại đạo nói ra đâu cái gì sai khác?

Lục Tổ Đại sư trả lời:

–Ngoại đạo nói bất sanh bất diệt, diệt rồi thì không sanh, đình chỉ cái sanh, lấy sanh để hiển diệt, cho nên nói sanh diệt là hai thứ. Tuy nói nó diệt, nhưng không phải chân diệt. Tuy tiếp tục sanh, nhưng nói không sanh. Còn tôi nói bất sanh bất diệt, là bổn lai nó không có sanh, cho nên nay nó cũng không có diệt; vì vậy, tôi nói bất sanh bất diệt thì không giống với lời nói của ngoại đạo. Ông muốn biết tánh quan trọng của tâm địa pháp môn, truyền tâm diệu pháp thì không nên suy tính nghĩ tưởng tất cả thiện và tất cả ác, lúc đó ông tự nhiên sẽ hiểu rõ đạo lý này, mà đắc nhập tâm thể thanh tịnh vốn có – nó là vĩnh viễn trạm nhiên thanh tịnh, mà không phải tạm thời thanh tịnh. Tuy nó là trạm nhiên thường tịch, nhưng trong Chân không của nó có Diệu hữu, công dụng vi diệu của nó còn nhiều hơn hằng hà sa số.

Tiết Giản nhờ Đại sư chỉ dạy, hoát nhiên đại ngộ, làm lễ từ giả về kinh đô, dâng biểu các lời Đại sư giảng dạy.

Ngày mồng ba tháng chín năm ấy, có lời chiếu dụ rằng:

"Đại sư đã cáo từ bởi già bịnh, vậy hãy vì trẫm mà hành đạo, để tạo phước điền cho nước nhà. Đại sư cũng như Ngài Duy Ma Cật, mặc dầu bịnh hoạn cũng ở lại Tỳ-da-ly mà xiển dương môn Đại thừa, truyền tâm ấn của chư Phật và tuyên bày pháp bất nhị.

Tiết Giản có truyền lại chỗ Đại sư chỉ dạy về cái tri kiến Phật. Trẫm nhờ chứa điều lành, có phước dư và kiếp trước đã có trồng cội lành nên nay khiến có Đại sư ra đời, mà đặng liền hiểu rõ pháp thượng thừa. Trẫm rất cảm đội ơn Đại sư, chẳng bao giờ quên. Trẫm xin dâng cho Đại sư một cái áo Cà-sa và một cái bát bằng thủy tinh.

Trẫm ra lịnh cho quan Thứ sử ở Thiều Châu sửa san miếu tự, và sắc tứ cho chùa cũ của Đại sư ở, hiệu là Quốc Ân Tự."

Giảng:

Tiết Giản được Lục Tổ Đại sư chỉ dạy rồi, hốt nhiên khai ngộ, vì thế hướng Đại sư đảnh lễ từ biệt trở về Hoàng cung. Ông ta đem tất cả những đạo lý do Đại sư thuyết ra viết thành tấu chương dâng lên Hoàng đế. Mùng ba tháng chín năm đó, có một chiếu thư tưởng dụ Lục Tổ Đại sư: "Đại sư, Ngài cáo bịnh từ tạ chiếu thỉnh, vì Trẫm tu đạo, Ngài thật là phước điền của quốc gia, là vị Cao Tăng tu hành nhứt của quốc gia. Đại sư giống như cư sĩ Duy Ma trong Kinh Tịnh Danh, giả bệnh ở thành Tỳ Da. Ngài xiển dương Phật pháp Đại thừa, ở chùa Nam Hoa truyền pháp môn Phật tâm ấn, thuyết giảng pháp môn bất nhịsanh diệt như như, tánh tướng bất nhị. Tiết Giản sau khi trở về cung truyền đạt những lời dạy của Ngài cho Trẫm, tri kiến của Ngài là tri kiến của Như Lai. Trẫm nhiều kiếp nhiều đời rộng làm việc thiện, cho nên nay có vinh hạnh như thế, cũng vì Trẫm kiếp trước gieo trồng thiện căn Bồ đề, cho nên mới có thể gặp Tổ Sư Ngài xuất thế, khiến cho Trẫm nhanh chóng hiểu rõ diệu lý tối thượng thừa. Trẫm mông ơn Ngài giáo hóa, đối với Đại sư cảm ân bất tận, ngày ngày Trẫm đều đem những lời dạy của Ngài, khấu đầu đảnh lễ không ngừng, nay Trẫm kính dâng ca sa Ma Nạp do nước Cao Ly triều cống."

Y ca sa này tôi có thấy qua, do Võõ Tắc Thiên cúng dường Lục Tổ Đại sư, bên trên có nhiều mảnh, mỗi mảnh có thêu một tượng Phật, nghe nói Võ Tắc Thiên tự tay thêu lấy.

Chiếu thư của Võõ Tắc Thiên tiếp tục nói: "Lại dâng lên bát thủy tinh..." Bát thủy tinh giống như lưu ly, trong ngoài thấu triệt. "Trẫm sắc lệnh Thứ sử Thiều Châu, trùng tu ngôi chùa do Ngài xây dựng ở Tân Châu, và nơi quê Ngài ra đời, xây dựng một tự viện gọi là Quốc Ân Tự."

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29892)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27178)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21766)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22231)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20054)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21948)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24747)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18988)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24761)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30974)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23987)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27763)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26511)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21311)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23224)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38127)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18438)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19976)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19043)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23152)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23877)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22791)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22910)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29570)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20638)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18709)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15847)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18857)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19676)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20153)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19952)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18117)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22930)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34166)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16418)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16917)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39243)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26066)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20097)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18850)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24060)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29138)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22901)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30953)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21008)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26850)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20677)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26266)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23324)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19817)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24675)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30034)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20221)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20404)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15829)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23882)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant