Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

20 Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bản Sự

26 Tháng Năm 201000:00(Xem: 6728)
20 Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bản Sự

ĐỀ CƯƠNG KINH PHÁP HOA
Hoà Thượng Thích Nhật Quang
Thiền Viện Thường Chiếu

 

Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bản Sự

CHÁNH VĂN

Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương. Đây là dặn phải khéo hộ trì tâm ấy, biện rành tà chánh. Chớ cho được như thế là tự đủ, rồi sanh lười nhác. Hoặc bị ấm ma hoặc loạn, hoặc bị thiên ma nhiễu hại, hoặc lại giữa đường thành cuồng, hoặc lạc nơi đường tà, hoặc do đắm yêu chỗ tập từ trước ôm giữ trong lòng, mà sanh tăng thượng mạn, hoặc là chìm không, hoặc lại trệ tịch, dừng nghỉ ở Hóa thành, chẳng có thể lại tiến lên. Do các duyên này v.v... nên chẳng có thể tiến đến Bảo sở

Xét thấy vua Diệu Trang Nghiêmtượng trưng cho người tu hành, là tâm vương của chính mình. Phu nhân Tịnh Đứctượng trưng cho chánh trí tuệ. Tịnh Tạngtượng trưng cho chánh tri. Tịnh Nhãntượng trưng cho chánh kiến. Nghĩa là người tu hành hay nương nơi chánh trí tuệ, chánh tri, chánh kiến, lấy đó làm thiện tri thức căn bản. Do thiện tri thức căn bản này, khéo gìn giữ lòng mình. Trong khi thiền định, phàm có thấy nghe hiểu biết, tất cả hiện tượng, cảnh giới lành dữ, lòng chớ tham trước, chớ khởi thánh giải, cho đến cũng chớ sanh lo mừng cùng các tâm như đã nói trên. Chỉ dùng trí tuệ quán sát nơi không tịch, thì tất cả cảnh giới hiện ra đó, liền khi ấy tự nhiên tiêu diệt. Khiến cho hành giả chẳng thoái chuyển nơi đạo vô thượng chánh chân. Đây nhằm phá lớp vọng tưởng võng tượng hư vô điên đảo của thức ấm thứ năm vậy. 

Nên biết văn trong tiết này, đồng với kinh Lăng Nghiêm phần nói về năm ấm, năm vọng tưởng, xuất hiện năm mươi lớp cảnh giới ma. Muốn biết việc ma thế nào, xin đọc kinh Lăng Nghiêm quyển 9, quyển 10 thì rõ, đây chẳng thuật hết.

Kệ rằng:

Vô thủy luân hồi, ái là căn,
Đuổi theo tà ác, thọ sanh thân,
Xoay về tịnh tạng gieo lời thỉnh,
Khéo độ trang nghiêm tin chánh nhân,
Chẳng lại tự theo tâm hạnh ác,
Từ nay nguyện thích Phật năng nhân,
Đấy nêu gặp được chân tri thức,
Hay chuyển Bồ-đề bất thoái luân.

GIẢNG

Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương. Đây là dặn phải khéo hộ trì tâm ấy, biện rành tà chánh. Chớ cho được như thế là tự đủ, rồi sanh lười nhác. Hoặc bị ấm ma hoặc loạn, hoặc bị thiên ma nhiễu hại, hoặc lại giữa đường thành cuồng, hoặc lạc nơi đường tà, hoặc do đắm yêu chỗ tập từ trước ôm giữ trong lòng, mà sanh tăng thượng mạn, hoặc là chìm không, hoặc lại trệ tịch, dừng nghỉ ở Hóa thành, chẳng có thể lại tiến lên. Do các duyên này v.v… nên chẳng có thể tiến đến Bảo sở

Phẩm này phá thức ấm. Tu đến đây là giai đoạn gần viên mãn. Diệu Trang Nghiêm Vương là tên một vị vua, tượng trưng cho tri kiến Phật. Thiền sư Minh Chánh dặn chúng ta phải khéo hộ trì tâm chân thật của mình. Từ đầu kinh Pháp Hoa đã nói chư Phật ra đời vì mục đích chỉ tâm chân thật cho tất cả chúng sanh. Những phẩm trước nói đến giai đoạn nhận ra tâm, tới đây là giai đoạn bảo trì, hằng sống với tâm đó. Muốn hằng sống với tâm chân thật thì phải có đầy đủ trí tuệ. Ở đây nói phải biện rành tà chánh, chớ cho được như thế là đủ. Người tự mãn, công phu đến giai đoạn gần xong liền tự cho là đủ nên sinh lười nhác, không tiến lên nữa. Đó là tai hại cần phải tránh.

Việc học Phật pháp cũng vậy. Có khi chúng ta học được đôi ba điều, biết chút ít liền thấy như vậy đủ tu rồi, không thèm học nữa. Như trong kinh tạng có hàng trăm bộ, mình chỉ học đôi ba bộ, tự thấy thông bác, luận nào cũng hiểu, kinh nào cũng nắm. Bởi thế không tiến tới giai đoạn quảng bác đa văn. Nhiều huynh đệ bị chướng khi nghe nói tu thiền không cần học nhiều, học nhiều tu không được, vì đó là đàm giãi của cổ nhân. Câu này chỉ khi nào đã xong việc hãy nói. Còn ngược xuôi trong luân hồi sanh tử mà nói như thế thì nguy. Cho nên thiền sư Minh Chánh bảo cần phải biện biệt tà chánh.

Kinh luật dạy chúng ta tu, chứ không kinh luật nào làm trở ngại việc tu của mình cả. Chúng ta học mà tự mãn, cố chấp, cho như thế là đủ, thấy đã thể nhập siêu lý, thì kinh luật trở thành chướng, thành bệnh đối với mình. Vì càng học càng nhớ thì càng trở ngại cho việc tu. Trái lại, người biết áp dụng lời Phật dạy lo tu hành, không kẹt câu chấp chữ thì kinh luận là thước đo pháp hạnh của chúng ta. Chúng ta học kinh luận để biết tu, đồng thời đối chiếu với kinh Phật dạy xem mình tu đúng hay không. Đó là điều không thể thiếu của người tu hành. Tu mà không học là tu mù. Học hiểu mà không tu là cố chấp, ngã mạn.

Vậy đối với người tu, sau khi đã biết thế nào là vọng tưởng lăng xăng, không cần chạy theo vướng mắc, để bị nó kéo dẫn tạo nghiệp trong luân hồi sanh tử. Như thế sẽ được yên định. Do yên định trí tuệ Bát-nhã hiện bày. Trí tuệ Bát-nhã hiện bày thì thấy các pháp rõ rànghuyễn hóa không thật, đối duyên tiếp cảnh không bị động, đây gọi là định tuệ hiện tiền. Phương pháp này chúng ta phải nắm vững để hành trì mỗi ngày. Siêng năng xét lại xem mình hết vọng tưởng chưa, làm chủ được chưa, hay vẫn còn bán tín bán nghi, lúc mê lúc tỉnh. Như thế thì kinh luật luận vẫn là thước đo, là khuôn vàng thước ngọc giúp mình chỉnh đốn công phu hằng ngày.

Hòa thượng Viện trưởng dạy dùng trí dụng của mình để xử lý tất cả những dấy niệm. Bao giờ chúng không dấy khởi lung tung nữa, lúc đó định tuệ hiện tiền, vọng tưởng phát sinh ở đâu? Còn bây giờ vọng tưởng nhiều lắm, vui, buồn, hờn, giận, lo, tức… đủ thứ hết. Những tâm điên đảo lăng xăng, những vướng mắc, chúng ta chưa buông được nên phải dùng đến phương tiện của Phật tổ để điều trị tâm bệnh của mình. Đó là chỗ người tu hành phải quan tâm

Trong hội của Lục Tổ có một vị tên Pháp Đạt, đến lễ tổ cầu pháp mà đầu không chấm đất. Tổ hỏi ông có sở học gì? Thưa con tụng được cả ngàn bộ kinh Pháp Hoa. Tụng cả ngàn bộ kinh Pháp Hoa nên trong đầu có khối u, lạy xuống không tới đất. Bởi vì Pháp Đạt tụng kinh mà chấp vào kinh nên thành bệnh, do đó Tổ bảo bị Pháp Hoa chuyển. Chúng ta cũng vậy. Như có người trước khi đến thiền viện là một võ sư đệ tam đẳng huyền đai chẳng hạn. Nhân vật đến thiền viện trong cái bằng cấp võ thuật ấy, nên từ nhà khách vô nhà bếp cũng có cái đệ tam đẳng huyền đai, từ nhà bếp lên chánh điện cũng kè theo cái đệ tam đẳng huyền đai, giờ ăn giấc ngủ… lúc nào đệ tam đẳng huyền đai cũng nằm trong tay nãi. Nó nung nấu thành khối u cứng trong tâm, nên ăn cơm không biết mình ăn gì, lên tụng kinh không biết mình tụng gì… Như thế là bị võ thuật chuyển. 

Có thầy ở thiền viện mười mấy hai mươi năm, rất tự hào về thời gian thâm niên ấy. Nhưng khổ nỗi các thầy áp dụng công phu chưa đúng mức. Ai nói nặng một câu thì mặt mày đổi sắc, không một chút xíu tự chủ. Thế nhưng gặp Phật tử lại khoe tôi ở thiền viện từ hồi Hòa thượng mới khai khẩn vùng đất này. Thiên hạ nghe cũng nể lắm, nhưng thật ra chỉ là mấy mươi năm rỗng, không có công phu gì cả, thật đáng xấu hổ, không thể tự hào được. Tu như vậy là bị thời gian chuyển, cảnh chuyển, tâm tham sân phiền não chuyển, chớ mình chẳng chuyển được gì cả. Gốc dẫn chúng ta đi trong luân hồi sanh tử không chặt đứt, không phá vỡ tí nào cả, tu như thế dù trải qua trăm ngàn năm cũng không dính dáng

Cốt lõi của sự tu là nhận ra tâm và phải bảo vệ được nó. Người bảo vệ được tâm thì trí dụng hiện tiền, định tỉnh sáng suốt, không bị cảnh duyên kéo lôi. Người đó là người tự tại, như thế mới tiến đến Bảo sở, không đi ngã tẻ, không lạc đường tà, không cống cao ngã mạn.

Xét thấy vua Diệu Trang Nghiêmtượng trưng cho người tu hành, là tâm vương của chính mình. Phu nhân Tịnh Đứctượng trưng cho chánh trí tuệ. Tịnh Tạngtượng trưng cho chánh tri. Tịnh Nhãntượng trưng cho chánh kiến. Nghĩa là người tu hành hay nương nơi chánh trí tuệ, chánh tri, chánh kiến, lấy đó làm thiện tri thức căn bản. Do thiện tri thức căn bản này, khéo gìn giữ lòng mình. Trong khi thiền định, phàm có thấy nghe hiểu biết, tất cả hiện tượng, cảnh giới lành dữ, lòng chớ tham trước, chớ khởi thánh giải, cho đến cũng chớ sanh lo mừng cùng các tâm như đã nói trên. Chỉ dùng trí tuệ quán sát nơi không tịch, thì tất cả cảnh giới hiện ra đó, liền khi ấy tự nhiên tiêu diệt. Khiến cho hành giả chẳng thoái chuyển nơi đạo vô thượng chánh chân. Đây nhằm phá lớp vọng tưởng võng tượng hư vô điên đảo của thức ấm thứ năm vậy. 

Vua Diệu Trang Nghiêm tượng trưng cho tâm mà theo như Duy Thức gọi là “Tâm vương”, tức tâm chủ của mình. Phu nhân Tịnh Đứctượng trưng cho chánh trí tuệ. Hai vị hoàng tử, một Tịnh Tạngtượng trưng cho chánh tri, hai Tịnh Nhãntượng trưng cho chánh kiến. Đây là hai vị thiện hữu tri thức cùng với hoàng hậu, cả ba đều là thiện hữu tri thức giúp vua Diệu Trang Nghiêm thành tựu giác ngộ viên mãn trên đường tu hành. Cuối cùng cả gia đình đều được thành tựu tốt đẹp. Cho nên thiện hữu tri thức đối với chúng ta rất cần thiết

Vua Diệu Trang Nghiêm nếu khôngphu nhân và hai người con thì không có cơ duyên đến với đạo. Cũng vậy, chúng ta phát tâm tu mà thiếu thiện hữu tri thức, thiếu những người đồng chí đồng hạnh luôn ở bên cạnh động viên nhắc nhở chúng ta thì pháp hạnh của mình khó thành tựu. Cho nên dân quê Việt Nam có câu “Ăn cơm có canh, tu hành có bạn”. Một câu nói bình thường nhưng ý nghĩa rất thâm thiết. Chẳng những tu mà làm bất cứ việc gì cũng thế, thiếu bạn bè, thiếu phương tiện hỗ trợ, chúng ta khó thành công

Tuy nhiên chúng ta phải là người dũng mãnh, can đảm quyết liệt, không ỷ lại. Nói không ỷ lại chứ không nói chẳng nhờ duyên. Như khôngcha mẹ, làm sao chúng ta có thân này, không thân này lấy gì mà tu. Không có Phật pháp, thầy tổ làm sao chúng ta khai mở tuệ mạng. Tuy có nhờ các duyên nhưng mình không ỷ lại hay trông chờ hoàn toàn vào các duyên, mà phải dũng mãnh cương quyết, nỗ lực vươn lên. Tu để sáng tâm, để thành tựu đạo nghiệp. Nếu mình tu thành rồi mà bạn của mình chưa thành thì hỗ trợ cho bạn tu hành thành tựu. Xem kinh A Hàm, chúng ta thấy các vị đệ tử của đức Phật rất thánh thiện, giàu trí tuệtình thương

Như hai tôn giả Xá Lợi PhấtMục Kiền Liên, trước khi gặp Phật hai ngài theo đạo Bà La Môn. Cả hai đều thiết tha tu hành, nên hứa với nhau, ai gặp thầy sáng tỏ ngộ chân lý trước thì báo cho người kia hay liền. Bởi vậy khi ngài Xá Lợi Phật gặp đệ tử của đức Phật, chỉ cho chánh phápgiới thiệu đến Thế Tôn, ngài liền báo cho Tôn giả Mục Kiền Liên biết, rồi cả hai vị dẫn 200 người đệ tử của mình đến đảnh lễ Phật Thích Ca. Hai ngài nghe pháp được đắc đạo, tất cả đệ tử đều hướng về đức Phật qui y Tam bảo.

Huynh đệ chúng ta cũng vậy. Người nam kẻ bắc, mỗi người một nghiệp một duyên, không cùng cha mẹ, tuổi tác, nghề nghiệp mà đồng tựu trung về thiền viện, phát tâm tu một pháp, học một thầy, sống chung một đạo tràng, rõ ràng chúng ta có duyên với nhau. Bây giờ chỉ còn thương mến, giúp đỡ nhau cùng phát huy trí tuệ của mỗi người. Chúng ta không phải sợ sệt, lo lắng, vướng mắc cái gì nữa. Bởi vì trên có Phật tổ phò trì, kế có thầy bạn chỉ dạy, đầy đủ tất cả phương tiện, chỉ cần mỗi vị phát tâm dũng mãnhchân chính. Tâm chân chính là tâm không tà vạy, tâm hướng đến đạo giác ngộ giải thoát, và giúp cho mọi người đều được giác ngộ giải thoát như mình. 

Đức Phật sau khi giác ngộ hoàn toàn dưới cội Bồ-đề rồi, ngài nói “Lạ thay! Chúng sanh đều có trí tuệ đức tướng Như Lai, tại sao ngu mê để bị trầm luân sanh tử?” Đáng lẽ giác ngộ xong, đức Phật thích thú nghỉ ngơi, khỏi phải làm gì nữa. Nhưng ngài thấy chúng sanh còn bị ràng buộc tăm tối nhiều quá, mình nỡ nào nghỉ cho nên Như Lai bắt đầu chuyển pháp luân. Chúng ta cũng vậy. Chuyển pháp luân của anh em trong một thiền viện là gì? Sáng mai anh kéo xe, anh nấu cơm, anh quét sân, anh cuốc đất, anh hốt rác v.v... tất cả những việc làm ấy đều là chuyển pháp luân. Anh nào chưa chịu chuyển pháp luân, quý thầy sẽ tập cho mấy anh chuyển pháp luân. Tất cả mọi sinh hoạt đều là pháp hạnh, pháp tu của các thiền sinh. Đồng hạnh mà, chúng ta cùng học một thầy, cùng tu một pháp môn, làm sao hỗ tương nhau để cùng tiến trong công phu tu tập. Được như thế chư huynh đệ là những vị Phật, những vị Bồ-tát đem ánh sáng trí tuệ và từ bi, phá dẹp những tăm tối giữa cuộc đời này. Nhiệm vụ của người xuất gia là như thế.

Anh em nên nhớ mọi thời khóa và công việc của chúng ta đều tựu trung phá ngã, dẹp sạch tham sân phiền não, để đời sống nội tâm chúng ta an vui, tỉnh táo. Đang an nhàn mà thấy người huynh đệ kéo xe nặng quá, mình ngồi trên Thanh Viên Đình nhâm nhi nước trà, không thèm xuống phụ thì không có đạo lý chút nào. Cái vui thích của chúng ta là sao? Anh kéo xe không nổi, để tôi phụ anh, như thế mới gọi là vui thíchđạo lý. Thầy làm việc mệt quá, đứng không lên nổi, mình đỡ thầy lên, xoa bóp, kiếm nước cho thầy uống hay công việc thầy nhiều quá mình phụ, xem như việc của mình. Như thế hay biết bao nhiêu! Giữa mình với thầy không có ngăn cách, giới hạn, sự phân biệt nào. Đây là đạo tình của những con người đang hướng lên con đường giải thoát

Hòa thượng Ân sư dạy chúng ta sống với tánh giác, ở đây dạy là bảo vệ tâm của mình. Một khi chúng ta phát tâm dũng mãnh rồi, không ai có thể cản được. Dù đời này họ có cản, đời khác họ cũng phải phục tùng và sẽ ủng hộ cho mình. Bởi vì người đã quyết tâm dũng mãnh sẽ không bị chướng ngại nào ngăn cản nổi. Tâm đã rỗng rang sáng suốt thì mọi thứ theo đó an bày sáng suốt. Cho nên quan trọng ở tâm của chúng ta. Trong hành xử hằng ngày cũng vậy, tâm còn nhác nhúa chưa quyết thì đừng nói đến chuyện tu. 

Lục Tổ dạy định tuệ đẳng trì chúng ta mới có thể giữ được tâm mình. Nếu người lăng xăng ngược xuôi, tăm tối, không sớm thì muộn, không sáng thì chiều, không vương cái này cũng vướng cái nọ. Cho nên cái nhìn của thiền là cái nhìn của tâm, không lựa chọn cao thấp mà do mình có áp dụng được định tuệ đẳng trì hay chưa. Gặp nhau huynh đệ dè dặt những lời nói rỗng, mà phải khiêm hạ, tâm niệm vững vàng mới tu tập đến nơi đến chốn. Tâm của các vị như thế thì khỏi sợ bị vướng mắc, bị luân hồi sanh tử. Nhân học về bản sự của Diệu Trang Nghiêm Vương, mỗi người chúng ta nhớ lại bản sự của mình. Đó là dẹp sạch thức tình phân biệt, sống trở lại với chân tâm thường sáng của mình. 

Phẩm này là phẩm phá lớp vọng tưởng võng tượng hư vô điên đảo của thức ấm. Nói gọn hơn là phá thức ấm. Lớp vọng tưởng võng tượng, tức là những hình tượng như mạng lưới, rất vi tế, rất khó phá trừ. Từ phẩm phá sắc ấm, phá thọ ấm, phá hành ấm, tới phẩm vua Diệu Trang Nghiêm Bản Sự này là phá thức ấm, tức phá lớp vọng tưởng võng tượng điên đảo sau cùng, chắc cứng trong chúng ta. Phá được thức ấm này rồi thì thành Phật.

Nên biết văn trong tiết này, đồng với kinh Lăng Nghiêm phần nói về năm ấm, năm vọng tưởng, xuất hiện năm mươi lớp cảnh giới ma. Muốn biết việc ma thế nào, xin đọc kinh Lăng Nghiêm quyển 9, quyển 10 thì rõ, đây chẳng thuật hết. Phá được lớp thức ấm tức phá sạch cái cốt lõi vô minh bên trong. Chư huynh đệ tự xoay lại, mạnh mẽ vươn lên sẽ thành tựu bản nguyện tu hành của mình. Dù bao nhiêu lớp ma, chúng ta cũng không sợ.

Người tu không đặt nặng đời sống vật chất, không quan trọng ăn ngon ngủ kỹ. Dĩ nhiên mỗi sáng mỗi trưa chúng ta có dùng cơm, buổi chiều ăn nhẹ mới đủ sức khỏe để tu. Nhưng mình không đặt nặng việc ấy. Không phải ăn cho ngon, ăn những trân tu mỹ vị, mà ăn để sống tu. Quan trọng là công phu hành thiền cho tốt, học tập giáo điển cho thông suốt quán triệt. Huynh đệ chúng ta cùng sống cùng làm, cùng tu cùng học, cùng sinh hoạt trong sự tu tỉnh. Nếp sinh hoạt thiền môn như vậy. 

Kệ rằng:

Vô thủy luân hồi, ái là căn,
Đuổi theo tà ác, thọ sanh thân,
Xoay về tịnh tạng gieo lời thỉnh,
Khéo độ trang nghiêm tin chánh nhân,
Chẳng lại tự theo tâm hạnh ác,
Từ nay nguyện thích Phật năng nhân,
Đấy nêu gặp được chân tri thức,
Hay chuyển Bồ-đề bất thoái luân.

Vô thủy luân hồi, ái là căn. Từ vô thủy, gốc của luân hồi là ái. Ái là sợi dây ràng buộc, cũng gọi là nước ái, ái niệm v.v... Có khi chúng ta nghe nói gốc của luân hồi sanh tửvô minh. Vì vậy tu là phá vô minh để phát huy trí tuệ. Ở đây nói gốc của luân hồi sanh tử là ái niệm. Hòa thượng Ân sư dạy phải làm chủ, đừng chạy theo những dấy niệm thương ghét. Mình đang yên ổn mà có những dấy niệm yêu thích liền lao theo, tức gốc ái niệm bật dậy, từ đó nó dẫn mình tạo nghiệp. Đã lao theo thì không phát huy được trí tuệ. Định tuệ không có thì luân hồi sanh tử không chạy đàng nào khỏi. 

 Đuổi theo tà ác, thọ sanh thân. Từ ái niệm đó, chúng ta lao theo gây nghiệp nhân nên thọ thân này. 

Xoay về tịnh tạng gieo lời thỉnh, khéo độ trang nghiêm tin chánh nhân. Tả lại tình huống gia đình vua Diệu Trang Nghiêm, trong đó bà vợ là Tịnh Đức và hai con là Tịnh Nhãn, Tịnh Tạng hướng dẫn vua trở lại con đường chân chánh.

Chẳng lại tự theo tâm hạnh ác, từ nay nguyện thích Phật năng nhân. Sau khi được vợ và hai con hướng dẫn vào con đường chân chánh rồi, vua phát tâm Bồ-đề. 

Đấy nêu gặp được chân tri thức, hay chuyển Bồ-đề bất thoái luân. Nhờ có thiện tri thức hướng dẫn con đường chân chánh, chúng ta không bị mất thời gian, không bị trở ngại ngã tẻ đường tà, do đó phát huy được trọn vẹn chánh nhân là Bồ-đề giải thoát

Chúng ta cùng sinh hoạt chung với nhau trong sự tỉnh táo sáng suốt, để trang nghiêm đạo tràng. Như vậy chúng ta là những thiện hữu tri thức của nhau. Nếu tập hợp nhau một số đông mà sống không ra gì, anh em không tin tưởng nhau, thầy trò không thật lòng với nhau. Đó là điều bất hạnh, là gốc của bất an bất ổn, của tai họa. Chúng ta ý thức rõ ràng nguy cơ đó, nên quyết tâm tu, học pháp trong sự chân thành nhất. Mỗi người đều tự phản quan, tự điều phục những thói hư tật xấu, làm trở ngại sinh hoạt của tập thể. Điều này rất quan trọng.

Giả dụ huynh đệ chúng ta thiếu cơm ăn, áo mặc, nhưng mình sống với nhau như ruột thịt, không có một gốc cạnh gì hết. Những khuyết điểm của anh tôi thấy như khuyết điểm của tôi. Tại sao như thế? Bởi vì tôi có khuyết điểm ấy, tôi mới biết khuyết điểm của anh. Như nhìn thấy mặt anh đang giận tôi biết ngay, vì tôi đã từng giận. Nếu tôi không giận, làm sao tôi biết anh giận. Rõ ràng như vậy. Vậy nên chúng ta thông cảm và cùng nhau xây dựng, hoán chuyển tập khí xấu của mình cũng như của các huynh đệ trong một đạo tình chân thật. Bấy giờ ta không cần nói thành Phật thành tổ, không đợi ai ấn ký cho mình, nhất định chúng ta sẽ được an vui trong một bản tâm thanh tịnh như nhau. 

Chư huynh đệ cần tạo một đạo tình, cho nếp thiền trong cuộc sống của mình. Ở đây không có tham, sân, si gì hết thì thành Phật tổ rồi, cần cầu cái gì nữa. Mỗi khi thấy huynh đệ có gì khác lạ, tôi tự tỉnh thức mình trước, sau đó mới uốn nắn huynh đệ. Gầy dựng như vậy không phải là chuyện dễ nhưng chúng ta có thể làm được, với điều kiện anh em phải có quyết tâm, chân thật. Ở đây không đặt nặng bằng cấp, không đặt nặng người giàu nghèo, có kiến thức hay không kiến thức mà phải là người có tâm thật thà chất phác, từ đó uốn nắn mới làm nên đại sự

Nếp sống thiền môn là như vậy. Anh em chúng ta chưa thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chưa triệt hoàn toàn cái ngã chấp điên đảo hay thức ấm võng tượng điên đảo cuối cùng, khó mà gầy dựng được sự nghiệp giác ngộ giải thoát. Cho nên điều quan trọng nhất của thiền tăng là phải phá cho sạch vọng tưởng vô minh, thức tình phân biệt. Có thế mới hy vọng bước lên bờ giải thoát an vui.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12536)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14116)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10862)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10533)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11208)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12016)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13170)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13662)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33684)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11355)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12946)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13072)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11644)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17912)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11454)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11876)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11524)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18993)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12567)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11352)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13158)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15796)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11834)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11709)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12786)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12645)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13984)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13009)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12965)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13310)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12785)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12721)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11771)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11746)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12355)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12399)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19842)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11979)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12003)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16905)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12689)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15075)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16137)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12907)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12259)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11937)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11941)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13170)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16523)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13242)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12509)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11837)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19876)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11175)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11273)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10414)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11110)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10983)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10053)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11765)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant