Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương Năm: Chánh Niệm, Tỉnh Giác

02 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 11865)
Chương Năm: Chánh Niệm, Tỉnh Giác

CHƯƠNG NĂM
CHÁNH NIỆM, TỈNH GIÁC

Gìn giữ tâm ý

1. Ai giữ giới Bồ tát 
Phải giữ gìn tâm ý 
Nếu không, không duy trì
Bất cứ giới luật nào.

2. Voi điên tuy gây hại
Nhưng không thể nào bằng
Con “voi tâm“ phóng dật
Mang đến bao tai ương

3. Luôn dùng thừng chánh niệm 
Cột chặt “voi tâm“ điên
Thì tai ương biến mất
Phước lành hiện đến liền. 

4-5. Điều phục được tâm ý
điều phục tất cả
Sư tử, voi, gấu, rắn 
Và tất cả kẻ thù
Cùng lính canh địa ngục
Quỷ Dạ xoa, La Sát
Đều bị trói tất cả.

6. Phật đã tuyên bố rằng 
Hiểm họa và lo sợ
Với khổ đau vô tận
Đều do tâm phát sinh. 

7-8. Hình cụ trong địa ngục 
Do ai tạo tác nên? 
Nền sắt nóng hỏa ngục 
Nữ nhân kia từ đâu? 

Phật dạy rằng tất cả 
Do ác tâm biến ra 
Bởi thế trong ba cõi 
Tâm mình đáng sợ nhất. 

9-10. Nếu bố thí cao cả
Đạt được nhờ xóa nghèo
Chẳng lẽ Phật xưa kia
Không đạt hạnh bố thí
thế gian vẫn nghèo? 

Bởi vậy tâm bố thí
Cả tài sản, công đức
bố thí rốt ráo
Phát xuất từ nội tâm

11. Lùa cá tôm đến đâu
Để khỏi bị săn giết?
Vĩnh viễn dứt ác tâm
thành tựu giới độ

12. Sân si đầy thế gian 
Làm sao hàng phục hết? 
Hàng phục được tâm sân 
hàng phục tất cả. 

13-14. Làm sao đủ da thuộc 
Để phủ kín địa cầu? 
Nhưng chiếc dép da này
Sẽ bao trùm mặt đất. 

Cũng vậy với ngoại cảnh
Tuy chưa làm chủ được 
Nhưng làm chủ tâm mình
Có gì quí giá hơn?

15. Làm thiện bằng thân, miệng
Nhưng tâm lại tán loạn
Thì khó đạt được phước
Để lên cõi Phạm Thiên (5)
Trong khi chỉ một mình
Tâm thanh tịnh cũng đủ.

16. Phật dạy dù tụng niệm 
Tu khổ hạnh lâu năm 
Mà tâm cứ tán loạn 
Thì cũng vô ích thôi. 

17. Những ai tìm hạnh phúc
Chạy trốn mọi khổ đau
Sẽ tiếp tục lạc đường
Nếu không hiểu cái tâm
Kỳ diệu chứa mọi pháp.

Chánh niệm và tỉnh giác

18. Bởi thế nên cẩn thận 
Gìn giữ trọn tâm ý
Giữ giới tu luyện tâm 
Đâu cần tu pháp khác. 

19. Giữa đám đông hỗn loạn
Ta gìn giữ vết thương
Không để ai đụng đến;
Giữa cuộc đời hung ác
Ta phải giữ tâm mình
Như ta giữ vết thương. 

20. Ta gìn giữ vết thương 
Vì sợ người đụng đau
Sao ta không giữ gìn
Vết thương của tâm ta
Cho khỏi bị đè bẹp
Dưới chân núi địa ngục? 

21. Nếu hành trì như vậy 
Ta cứng rắn, tinh tấn
Dù ở giữa người ác 
Hay ở giữa người lành. 

22. Thà để mất lợi dưỡng 
Mất tài sản, thanh danh
Mất thân xác, mạng sống
Quyết không để mất tâm. 

23. Tôi chấp tay nguyện cầu
Cho những ai ước mong 
Gìn giữ được tâm ý
Đều luôn luôn duy trì
Chánh niệm và tỉnh giác

24. Người đau không đủ sức
Làm bất cứ việc gì 
Cũng vậy, bất cứ ai 
Thiếu chánh niệm, tỉnh giác 
Sẽ không còn đủ sức
Để làm những việc lành

25. Người tâm không chánh niệm 
Không còn ghi trong trí 
Lời giáo huấn tu hành 
Như nước rỉ bình nứt. 

26. Biết bao người thông thái
Sùng tíntinh tấn
Nhưng vì không chánh niệm
Nên phạm tội ô uế. 

27. Tên giặc không chánh niệm 
Luôn rình cướp tỉnh giác
Vét sạch phước tích lũy
Đưa người vào nẻo ác. 

28. Ái dục như lũ giặc
Cướp gia tài phước đức
Hủy hoại tâm chánh niệm
Phá đường đến cõi lành . 

29. Tuyệt không để chánh niệm 
Rời khỏi cửa tỉnh giác;
Nếu nó đi lang thang
Phải gọi nó quay lại;
Nó phải nghĩ cảnh khổ 
Trong ba cõi địa ngục 
Để an trú chánh niệm

30. Hạnh phúc thay những ai 
Sống cạnh thầy đáng kính
Tuân theo lời giáo huấn 
Để trau dồi chánh niệm

31-32. “Chư Phật, chư Bồ tát
Nhìn thấu suốt mọi điều
Ta đứng trước các ngài
Đâu dấu được điều chi”. 

Nếu có suy nghĩ ấy
Sẽ sinh lòng hổ thẹn 
Và trong tâm luôn luôn
Có mặt của chư Phật. 

33. Chánh niệm như lính canh
Trước cửa ngõ của tâm
Nhờ đó mà tỉnh giác
Mãi mãi được có mặt.

34. Nếu ý xấu manh nha 
Phải thấy ngay tai họa.
Vậy phải giữ chánh niệm 
Như cây bám chặt đất . 

35. Không bao giờ nên nhìn 
Dáo dác và mông lung 
Mắt thường nhìn thẳng xuống
Như trong lúc ngồi thiền

36. Để cho mắt nghỉ ngơi 
Thỉnh thoảng nhìn chân trời 
Khi có người xuất hiện 
Hãy nhìn thẳng chào hỏi. 

37. Trên đường, nên đứng lại
Nhìn rõ khắp bốn phương 
Lúc dừng nghỉ dưỡng sức 
Hãy quan sát sau lưng . 

38. Kiểm tra kỹ trước sau 
Rồi nhận định hoàn cảnh
Tùy nhu cầu hành động
tiến tới hay lui. 

39-40. Trước khi ta hành động
Nên ý thức rõ ràng
”Đây tư thế của thân”
Và trong khi hành động
Cũng luôn luôn quán xét
Tư thế của thân mình. 

Cũng vậy, thường quán xét 
Tâm ý như voi điên
Buộc vào trụ chánh niệm
Không cho nó chạy loạn. 

41. Người tu tập thiền định 
Luôn luôn giữ chánh niệm
Thường quán sát tự hỏi 
Tâm ý mình ở đâu? 

42. Lúc nguy, khi lễ lạc
Hoặc trong khi bố thí
Khó giữ được chánh niệm 
Nên buông giới hạnh nhỏ. 

43-44. Quyết định làm việc này
Không nên nghĩ việc khác 
Tâm trí phải chuyên chú 
Làm xong từng việc đã. 

Được vậy việc mới thành 
Nếu không, thì hai việc 
Chẳng việc nào hoàn tất
Chánh niệm chẳng gia tăng

45. Hãy quyết tâm từ bỏ 
Xem kịch, nói chuyện phiếm 
Hãy tinh tấn đoạn trừ 
Tâm tham đắm thứ ấy. 

46. Hãy nhớ lời đức Phật 
Từ bỏ việc vô nghĩa
Như bức cỏ, vẽ đường
Đập đất đá vỡ tan

47. Trước khi muốn đi đứng 
Hoặc trước khi nói năng 
Phải kiểm soát tâm ý
Đưa nó vào chánh niệm

48. Nếu ý khởi tham ái 
Tâm manh nha nổi giận 
Hãy tạm dừng nói, làm 
Như cây đứng lặng yên. 

49-50. Khi tâm ý lăng xăng 
Ngạo mạn hoặc kiêu căng 
Tự mãn hoặc thô bạo 
Lém lĩnh hoặc lừa dối 

Tự khen và chê người 
Nói những lời khinh bạc 
Nói những lời gây gổ 
Hãy như cây đứng yên

51. Muốn lợi lộc, danh tiếng 
Muốn sai sử người khác 
Muốn kẻ khác hầu hạ 
Hãy như cây đứng yên

52. Khi muốn nói và làm 
Khiến người mất lợi ích 
Để mưu cầu lợi mình 
Hãy như cây đứng yên

53. Khi bồn chồn lười biếng
Nhát sợ, không biết thẹn 
Nói vô nghĩa, thiên vị 
Hãy như cây đứng yên

54. Khi thấy tâm ô nhiễm
Lăng xăng việc vô nghĩa
Hãy dùng phép đối trị
Kiên trì an định tâm. 

55-57. Không nên để phân tâm
Vì những việc tranh chấp
Hãy luôn đem an vui
Làm cho người hạnh phúc.
Với đức tin thâm sâu 
Vững vàngkiên quyết 
Biết xấu, sợ nhân quả.

Đừng sinh tâm chê bai
Kẻ ngược ngạo, ngu si
Nên mở lòng thương họ
Vì họ bị vô minh

Vả lại tôi đã nguyện
Vì lợi mình lợi người 
Tôi không nên phạm tội 
Vậy phải luôn quán tưởng 
Rằng tôi là vô ngã
Tôi là một ảo tưởng

58. Nên luôn tư duy rằng 
Nhiều kiếp mới thành người 
Vậy phải giữ tâm sáng 
Vững như núi Tu Di.

Thân

59. Hỡi này tâm ý ơi
Ngươi tự vệ ra sao
Khi kên kên háu đói 
Mổ xé thân thể ngươi? 

60. Sao ngươi xem thân này 
bản ngã của ngươi? 
Ngươi với nó khác nhau 
Mất nó ăn nhằm gì! 

61. Này tâm ý ngu si 
Ngươi xem khúc gỗ sạch
Không phải là thân ngươi
Nên ngươi không bám víu
Sao lại bám bộ máy 
Cấu tạo từ bẩn dơ? 

62-63. Hãy dùng tâm quán tưởng 
Tách da ra khỏi thịt 
Dùng trí tuệ làm dao 
Tách thịt rời khỏi xương. 

Rồi chẻ tách xương ra 
Phân tách tủy bên trong 
Quan sát cho thật kỹ 
Thực chất nó là gì? 

64. Dẫu tìm tòi cẩn thận
Vẫn không thấy bản chất 
Của bất cứ vật nào.
Tại sao còn tham luyến 
Nâng niu tấm thân này? 

65. Ngươi không thể nào ăn
Thân thể dơ bẩn này 
Không uống máu, ăn lòng
Vậy giữ nó làm chi? 

66. Tốt nhất xem thân này
thức ăn quạ, cáo
Chỉ nên giữ thân này
Giúp ta làm việc thiện

67. Dù ngươi bám giữ thân 
Thần chết cũng không tha 
Cướp lấy thẩy cho quạ 
Ngươi làm gì được đây? 

68-69. Khi tớ bỏ ra đi 
Chủ không cho cơm áo 
Thân này sẽ bỏ ngươi 
Cưng dưỡng nó làm gì? 

Trả đủ lương cho nó 
Chớ cho thêm quá mức
Ôi tâm của ta ơi! 
Đối với thân của ngươi 
Hãy xử sự như thế. 

70. Hãy xem thân như thuyền 
Dùng để chở chúng sinh
Đưa họ từ bờ khổ 
Sang bên bờ giải thoát

71. Hãy tự chủ thân tâm 
Luôn lộ vẻ vui tươi 
Đừng cau mày giận dữ 
Hãy làm người bạn tốt,
Chân thành của chúng sinh

72. Khi di dời ghế giường 
Đừng gây tiếng động lớn 
Mở cửa cũng nhẹ nhàng 
Luôn tránh tiếng ồn ào

73. Sếu, mèo và kẻ trộm 
Hành động rất lặng lẽ 
Để đạt được mục tiêu 
Bồ tát cũng nên thế . 

74. Làm học trò tất cả
Cung kính nhận lời khuyên
Của bậc thầy hướng dẫn
Dù ta chẳng yêu cầu.

Nguyên tắc ứng xử

75. Ai khéo giảng chánh pháp
Ta nên ngõ lời khen
Ai làm phước làm lành
Ta vui mừng ca tụng

76. Kín đáo khen người khác 
công đức của họ 
Nghe người khác khen mình 
Tự xét xứng đáng không? 

77-78. Ai làm được việc gì 
Mang lại nguồn hạnh phúc
Không thể mua bằng tiền
Thì ta hãy cùng vui 
Với công đức kẻ ấy. 

Làm vậy không gây hại
Đời sau được vui hơn
Nếu sinh lòng ganh tị
Ta sẽ gặt khổ đau
Đời sau càng khổ nữa. 

79. Nói năng phải minh bạch 
Dễ nghe, thấm tận tim
Phát xuất nơi từ tâm
Nhu hòa và chính xác

80. Hãy nhìn ngắm chúng sinh 
Với lòng dạ từ bi
Và nghĩ rằng nhờ họ 
Mà ta sẽ thành Phật

81. Phước lớn được thành tựu 
Nhờ tín tâm vững bền 
Nhờ đối trị việc ác 
Nhờ cúng ba ruộng phước (6) 

82. Phát xuất tận đáy lòng 
Ta thường làm việc thiện 
Điều lành hãy tự làm 
Không giao cho kẻ khác. 

83. Bố thítrì giới 
Phải tăng tiến mỗi ngày
Đừng chê nhỏ, theo lớn 
Nên thực hiện mọi hạnh. 

84. Nhận thức được như vậy
Nên hiến mình làm thiện
Có thể phạm giới cấm
Vì lợi ích chúng sinh

85. Chỉ ăn những gì cần
Chia sớt thức ăn uống
Cho những vị tu sĩ 
Cho kẻ khổ, cô đơn
Cho người rơi xuống thấp
Bồ tát cho tất cả
Trừ ba bộ áo quần. 

86. Thân phục vụ chánh pháp 
Nên không để tổn thương 
Nhờ vậy mau thực hiện
Ước nguyện cứu chúng sinh

87. Không hy sinh thân mạng
Cho kẻ thiếu từ bi
Bồ tát chỉ xả thân
mục đích tối thượng

88. Không thuyết pháp cho người 
thái độ bệnh hoạn 
Đội mũ, không cung kính 
Cầm gậy, cầm binh khí . 

89. Không thuyết pháp cho người 
Khác phái ở một mình 
Không nói pháp thâm sâu 
Cho kẻ thiếu thông minh 
Nhưng cũng phải cung kính 
Mọi pháp dù sâu cạn (7)

90. Không nên giảng Tiểu thừa
Cho người đủ điều kiện
Lãnh hội pháp Đại thừa
Không được thu hút người
Bằng cách giảng sai kinh
Và sai chú Mật tông (8) 

91. Không được nhổ nước bọt
Và vứt tăm xỉa răng
Bừa bãi nơi công cộng
Không được phép phóng uế
Lên đất đai canh tác
Và nguồn nước sạch trong. 

92. Khi ăn chớ đầy miệng 
Há miệng, nhai ra tiếng
Ngồi không đong đưa chân 
Không xoa tay vào nhau. 

93. Không đi xe, ngủ đêm 
Chung với người khác phái 
Hầu tránh sự dị nghị 
Khiến người mất niềm tin

94. Không nên dùng ngón tay 
Chỉ đường hoặc ra lệnh 
Mà phải tỏ lịch sự 
Đưa nguyên bàn tay phải . 

95. Không đưa tay vẫy gọi
Trừ khi gọi gấp rút
Búng ngón tay thành tiếng 
Bằng không mất uy nghi

96. Hãy ngủ trong chánh niệm 
Nằm đúng theo tư thế
Như khi Phật nhập diệt 
Lúc tỉnh giấc, dậy liền. 

97. Phật dạy vô số hạnh 
Không thể nào kể hết 
Pháp thanh lọc tâm này 
Nên gắng thực hành ngay. 

98. Ngày như đêm ba lần 
Tụng niệm Kinh Ba Phần (9) 
Y theo tâm Bồ đề 
Giải trừ dần ác nghiệp

99. Bất cứ hoàn cảnh nào
Do ta hoặc người tạo
Phải tinh tấn thực hành 
Những lời đức Phật dạy. 

100. Bất cứ giáo pháp nào
Đưa đến sự giải thoát
Con Phật đều thực hành
Được vậy, sẽ gặt phước. 

101. Bồ tát làm mọi hạnh
Vì lợi ích chúng sinh
Trực tiếp hay gián tiếp
hồi hướng tất cả
sự nghiệp giác ngộ

102. Dù phải mất tính mạng 
Bồ tát không xa lìa 
Các bậc thiện trí thức 
Tinh thông nghĩa đại thừa

Nguồn gốc giới luật

103. Để biết cách hầu Thầy
Nên học những phép tắc
Trong truyện Cát Tường Sinh (10) 
Và thêm các kinh khác. 

104. Nên đọc các tạng kinh
Có trình bày giới luật
Trước hết hãy tìm đọc 
”Thánh xứ hư không tạng”. 

105. Kinh “Học xứ tập yếu” 
Đã diễn rộng lý do 
Vì sao phải tu hành
Vậy cần đọc bộ luận 
”Chúng học xứ tập yếu”. 

106. Hoặc cũng nên tìm đọc 
”Nhất thiết kinh tập yếu” 
Và cũng cần đọc kỹ 
Song luận của Long Thọ

107. Kinh luận trên ghi rõ 
Điều cấm, điều nên theo
Tu đúng lời kinh dạy 
Giữ lòng tin trên đời. 

108. Định nghĩa của chánh niệm
Tóm gọn lại như sau: 
Luôn quán sát thật kỹ
Trạng thái Thân và Tâm. 

109. Tụng niệm để thực hành 
Đọc suông không có ích 
Nếu chỉ đọc toa thuốc 
Làm sao trị bệnh lành?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49754)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34632)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33453)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43931)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57079)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47569)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39421)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38481)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52947)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36599)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32243)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40478)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43495)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31456)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46714)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36211)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28704)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29244)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31893)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28836)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33369)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29140)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60984)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39779)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26682)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29676)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37385)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40093)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26843)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42662)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37286)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28292)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28897)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26399)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27173)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26188)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34675)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27812)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30477)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33290)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28571)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30079)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25494)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21849)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51314)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26733)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28629)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27712)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24361)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27463)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31936)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30187)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27705)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35453)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27447)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30021)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31776)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23029)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24182)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23025)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant