Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ghi Chú

01 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 8607)
Ghi Chú

KINH KIM QUANG MINH
(KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM)
Hoà Thượng Thích Trí Quang Dịch Giải 
Bản Hoa Dịch của Ngài Nghĩa Tịnh

 

Ghi chú

Ghi Chú (1) 
Tên kinh này gọi đủ là Kim quang minh tối thắngvương. Kim quang minh: ánh sáng hoàng kim. Tối thắng vương: chúa tể tối thượng

Ghi Chú (2) 
Chính văn là độc, tụng, thọ, trì, thư tả

Ghi Chú (3) 
Diệu tràng, Phạn: Ruciraketu. Bản ngài Đàm mô sấm dịch là Tín tướng. 

Ghi Chú (4) 
Chính văn là kiếp. 

Ghi Chú (5) 
Chính văn là ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh, thọ giả, dưỡng dục, tà kiến, ngã ngã sở kiến, đoạn thường kiến. 

Ghi Chú (6) 
Hiến cúng (cúng dường = cung dưỡng) có 3: một là lợi hiến cúng: hiến dâng cúng phẩm; hai là kính hiến cúng: kính trọng đủ cách; ba là tu hiến cúng: thực hành thiện căn (luận Đại trang nghiêm, Chính 39/198). 

Ghi Chú (7) 
Chính văn là căn tánh ý lạcthắng giải

Ghi Chú (8) 
Chính văn là thị giáo lợi hỷ. 

Ghi Chú (9) 
Chính văn là thập nhị phần giáo. 

Ghi Chú (10) 
Chính văn ở đây là khí lượng: dung lượng của đồ chứa. Trình độ của chúng sinh là như khí lượng: tùy khả năngtiếp nhận Phật pháp khác nhau. 

Ghi Chú (11) 
Cảnh trí: tâm trí như gương. Không phải chỉ là đại viên cảnh trí, mà ở đây chỉ cho vô phân biệt trí

Ghi Chú (12) 
Như như: như nhau như nhau. Chính nghĩavô phân biệt

Ghi Chú (13) 
Chính văn là tự tha, chính xác thì nên dịch là chủ thể khách thể. 

Ghi Chú (14) 
Những định không còn tư tưởngcảm giác, như vô tưởng định, diệt tận định

Ghi Chú (15) 
Không ảnh là hình ảnh có ra là có trong không gian, nhờ không gian; nếu không có khoảng trống thì chẳng hình ảnh nào có được. 

Ghi Chú (16) 
Cũng nên nói bất trụ sinh tử nữa (Chính 39/217). 

Ghi Chú (17) 
Chính văn là hành pháp: cái pháp có tính cách chuyển biến (tức hữu vi). 

Ghi Chú (18) 
Thật ra nên nói cả 10 địa nữa, vì đây là tha thọ dụng thân

Ghi Chú (19) 
Chính văn là tướng cập tướng xứ, Chính 39/222 nói là nhân ngã pháp ngã. Tôi nghĩ hơi khác; tướng là ngã pháp, tướng xứ là y tha phần nhiễm. Do vậy, đáng lẽ tướng cập tướng xứ nên dịch là ảo giác và căn cứ của ảo giác

Ghi Chú (20) 
Niết bàn và đường đến niết bàn

Ghi Chú (21) 
Thân này là thân này đây, thân chúng ta đây, mà nói chính xác là cái "thắng thân" (thân hơn bình thường), cái thân "đạo khí" (đồ chứa đựng Phật pháp) mà ghi chú 22 nói. Coi thêm ghi chú ấy. 

Ghi Chú (22) 
Chính văn là thị thân nhân duyên cảnh giới xứ sở quả y ư bản. Theo Chính 39/223, thân (bản thân) là quả báo được cái thắng thân làm đồ chứa đựng chánh pháp, và đó là dị thục quả. Nhân duyên (yếu tố) là thắng thiện đã tu trong đời trước, và đó là tăng thượng quả. Cảnh giới (đối cảnh) là bồ đềniết bàn, sở duyên của đẳng lưu quả. Xứ sở (đối tượng) là đại bồ đềsĩ dụng quả nguyện cầu. Quả y ư bản (kết quả; nhưng 4 chữ liền lại thành 1 từ ngữ thì phải dịch là căn bản) là ly hệ quả không rời như như lý. Nhưng cách chấm câu như vậy tôi không đồng ý, nên đã chấm câu và dịch như đã dịch. 

Ghi Chú (23) 
Chính văn là đại thừa, Như lai tánh, Như lai tạng

Ghi Chú (24) 
Tự tại là ngã. Ngã trong 4 đức niết bàn của Phật không phải là nghĩa chủ tể (khái niệm về ngã của ngã chấp). 

Ghi Chú (25) 
Là 32 tướng tốt, 80 tướng phụ, 18 bất cọng, 10 lực, 4 vô úy, đai bi, 3 niệm, 32 độc đắc. Tham chiếu Chính 39/224-226. 

Ghi Chú (26) 
Chính văn ở đây là tướng. 

Ghi Chú (27) 
Ở đây nghĩa là phi nhị biên

Ghi Chú (28) 
pháp thân, đại định, đại trí

Ghi Chú (29) 
Chính văn là thế thiện, nói đủ là thế gian thiện căn, đối lại với xuất thế thiện căn

Ghi Chú (30) 
Có 5 sự: sợ không đủ sống, sợ chết, sợ đường dữ, sợ tiếng dữ, sợ công chúng

Ghi Chú (31) 
trung tính, không thiện, không ác, tản mạn, không kiểm soát

Ghi Chú (32) 
Dịch đủ là mộng thấy trống vàng ròng phát ra âm thanh diễn đạt diệu pháp sám hối

Ghi Chú (33) 
Tám nơi là địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh (khổ quá) bắc câu lô (vui quá) cõi trời trường thọ (yên ổn quá) điếc mù câm ngọng, thế trí biện thông (thông minh rất đời) sinh trước hay sau Phật (mà không còn Phật pháp). Đây là 8 nơi gọi là nạn (khó cho sự thấy Phật nghe Pháp) là không rảnh (không có sự tu tập xen vào). 

Ghi Chú (34) 
Chính văn là hữu hải, chỉ cho 3 cõi mà tổng kê có 25. Có, hữu, là hiện hữu sinh tử, không phải niết bàn (như ngoại chấp không dưới 3 trong số 25 hữu ấy). 

Ghi Chú (35) 
Nói ở phẩm 7 cuốn 5. 

Ghi Chú (36) 
Coi ghi chú 38. 

Ghi Chú (37) 
Chính văn là nhân duyên

Ghi Chú (38) 
Từ ghi chú số 36 đến đây dịch theo sự sớ giải của Chính 39/245-246. 

Ghi Chú (39) 
Đối chiếu văn chỉnh cú (coi ghi chú 40 ) thì câu này có nghĩa coi các vị bồ tát mới tu cũng như bậc Nhất thế trí (để thân gần, phụng sự, tu học). 

Ghi Chú (40) 
Nghĩ, chính văn là tưởng. Phải đổi, vì tưởng đặt ở đây, ngữ khí sẽ có nghĩa ngỡ là, không đúng ý ở đây. 

Ghi Chú (41)
Tướng là người cho, người nhận, vật cho, là mục đíchquả báo. Trú tướng thì chấp có, xả tướng thì chấp không, hồi hướng bố thí mà như vậy thì không chính xác đối với tâm lýmục đích của sự hồi hướng bố thí

Ghi Chú (42) 
Chính 39/250 nói, không thể sánh bằng là vì kinh này năng lực làm cho những thắng hạnh ấy được thực hành, nên nói không thể sánh bằng. Không phải những thắng hạnh ấy không thể sánh bằng. Xin thêm rằng đây chỉ là cách đề cao kinh này. Có 11 thắng hạnh không thể sánh bằng. Nhưng câu kết, dịch "thì không thể sánh bằng" khác hẳn nếu dịch "cũng không thể sánh bằng". 
Chữ của chính văn, nhưng không chắc hoàn toàn có nghĩa như ngày nay hiểu. 

Ghi Chú (43) 
Tu hành: pháp được tu, không phải tu hành: pháp phải diệt; ở đây 2 thứ này là của tâm bồ đề (Chính 39/253). 

Ghi Chú (44) 
Đúng ra nên nói là phục tạng: Kho tàng ngầm dưới mặt đất mặt nước. 

Ghi Chú (45) 
Các hành ở đây là 12 duyên khởi

Ghi Chú (46) 
Năm chướng nạnác thú, ác quỉ, giặc thù, tai họa nước lửa, ba loại khổ não. Mười địa giống nhau. 

Ghi Chú (47) 
Ghi chú này có 2 điều Một, văn trước minh chú đổi thứ tự một chút cho thích hợp hơn. Hai, minh chú không chép phiên âm của Hoa văn, vì nhiều chữ tra không ra cách đọc, tra có ra cũng đọc rất khó. Nên ở đây dịch âm từ Phạn tự, và sao lục cả Phạn tự ấy. Phạn tự sao lục từ ghi chú của Chính 16/420-450, còn dịch âm là do Hòa thượng Thích Minh Châu (lưu ý: chữ có R ở giữa thì đọc như chữ Pháp, thí dụ: tra là tr-a, sri là sr-i, v/v) Kinh này có 35 bài minh chú tất cả, và đều làm như vậy. 

Ghi Chú (48) 
Dịch đủ là sự ca tụng Phật là công đức ví như hoa sen

Ghi Chú (49) 
Dịch đúng chính văn là phòng tối (ám thất). 

Ghi Chú (50) 
Thức ăn tịnh hắc là thế nào thì không biết, chỉ biết Chính 39/272 nói nhuộm cho đen cũng được. Nhưng tại sao phải là thức ăn màu đen, và tại sao phải ăn lúc mặt trời chưa mọc, thì không thấy xuất xứ trên giải thích

Ghi Chú (51) 
Thiện phương tiện: phương cách khéo léo. Thắng nhân duyên: yếu tố ưu việt

Ghi Chú (52) 
Tri giả: chủ thể tri thức. Tác giả: chủ thể hành động. 

Ghi Chú (53) 
Tức là điểu táng. 

Ghi Chú (54) 
Tật dịch là bịnh dịch, bịnh thời khí, nói chung là bịnh truyền nhiễm. 

Ghi Chú (55) 
Đoạn nhỏ này có lược mấy câu. 

Ghi Chú (56) 
Chúng sinhliên hệ với mình, chính văn là hữu duyên chúng sinh

Ghi Chú (57) 
Tức như nói mất chủ quyền, độc lập

Ghi Chú (58) 
Tức như nói nhiệt độ gấp đôi. 

Ghi Chú (59) 
Chính văn là tịnh thất

Ghi Chú (60) 
Tịnh thất: cái phòng sạch sẽ. 

Ghi Chú (61) 
Cù ma (gomaya) là ngưu phấn. Coi ghi chú 69 . 

Ghi Chú (62) 
Ngài Nghĩa tịnh tự ghi: Ca li sa ba na (karsapana) đúng ra chỉ là bối xỉ (bối xỉ là vỏ sò, xưa lấy làm tiền tiêu). Nhưng tùy xứ mà chữ ấy có nơi là bối xỉ, có nơi là tiền kim loại. Xứ Ma kiệt đà thì 1 karsapana ăn 1600 bối xỉ (1 bối xỉ ăn 16 hay 19 tiền cổ). Nhưng có Phạn bản chép mỗi ngày cho 100 trần na ra (tiền vàng). Trì chú này thì suốt đời ngày nào cũng được cho như vậy. Ấn độ cầu nguyện đa số linh nghiệm, trừ ra không dốc lòng. (Chính 16/431). 

Ghi Chú (63) 
Dịch đủ là như vành bánh xe có cả ngàn cái díp. 

Ghi Chú (64) 
Năng lựcđạt được kết quả, đường chính là phi nhị biên, lý thểchân như, sức mạnh là diệt ác sinh thiện. 

Ghi Chú (65) 
Phạn tự của tên 4 vị này như sau: Agate, Satadru, Cyutaprabha, Sutamani. 

Ghi Chú (66) 
Dịch Quan thế âm là từ một thuyết khác, và danh hiệu này không đủ, không phải chính phiên (Chính 39/300). 

Ghi Chú (67) 
Đây là Phạn văn của 32 vị. Tham chiếu Chính 16/434-435. 
1. xương bồ (vaca) 
2. ngưu hoàng (gorocana) 
3. mục túc hương (sephalika) 
4. xạ hương (mahabhaga) 
5. hùng hoàng (manassila) 
6. hợp hôn thụ (sirisa) 
7. bạch cập (indrahasta) 
8. khung cùng (syamaka) 
9. câu kỷ căn (sami) 
10. tùng chi (sri - vibhitaka) 
11. quế bì (tvaca) 
12. hương phụ tử (musta) 
13. trầm hương (agaru) 
14. chiên đàn (candana) 
15. linh lăng hương (tagara) 
16. đinh tử (?) 
17. uất kim (knnkuma) 
18. bà luật cao (galava) 
19. vi hương (naradamsa) 
20. trúc hoàng (gorocana) 
21. tế đậu khấu (sukumara) 
22. cam tùng (misganta) 
23. hoắc hương (patna) 
24. mao căn hương (usira) 
25. sất chi (sallaki) 
26. ngải nạp (saileya) 
27. an tức hương (guggula) 
28. giới tử (sarsapa) 
29. mã cân (sophaghni or sosani) 
30. long hoa tu (nagakesala) 
31. bạch giao (sarjarasa) 
32. thanh mộc (kustha) 

Ghi Chú (68) 
Phạm văn: Pusya. Kinh cũ gọi là quỉ tinh (Chính 39/302) 

Ghi Chú (69) 
Tráng lát nền nhà hay tường vách, đều dùng vật liệu hiện đại, mới sạch sẽ trang trọng. 

Ghi Chú (70) 
Đồng tử: giữa tuổi thiếu nhi với thiếu niên

Ghi Chú (71) 
Ấn với Tàu phân tích tất cả âm điệu có 5 cung bậc, gọi là ngũ âm

Ghi Chú (72) 
Là mỗi tháng âm lịch mà là nửa sau, tức 16-30. Ngày 9 là 24, ngày 11 là 26. 

Ghi Chú (73) 
Là như thủy triều ứng theo mặt trăng

Ghi Chú (74) 
Là làm cù lao, làm bãi nổi, cho người khỏi bị trôi cuốn. 

Ghi Chú (75) 
Chú tán là tán dương bằng minh chú, và minh chú ở đây là hiển ngữ (lời chữ không bí mật). 

Ghi Chú (76) 
Là 3 loại thế gian. Thông thường là 1. ngũ uẩn thế gian: thế giới tổng thể, tức 5 uẩn; 2. chúng sinh thế gian: thế giới chủ thể, tức thọ tưởng hành thức và phần nội sắc; 3. quốc độ thế gian: thế giới khách thể, tức phần ngoại sắc. 

Ghi Chú (77) 
Ngài Nghĩa tịnh ghi chú: Trên đây là minh chú để trì tụng, cũng là minh chú để tán dương. Khi tụng chú thì phải tụng chú tán này trước. (Chính 16/437). 

Ghi Chú (78) 
Ngài Nghĩa tịnh ghi chú: Minh chú phẩm này có lược có rộng, có mở có hợp, trước sau bất đồng. Phạn bản có nhiều. Tôi y theo 1 bản mà dịch. Sau này ai tìm hiểu thì phải biết như vậy (Chính 16/437) 

Ghi Chú (79) 
1. Tất cả chỉnh cú đoạn này có thể dịch khác hơn, thí dụ "Kính lạy chư Như lai, bậc hùng biện nhiệm mầu" ... Nhưng xét ra không bằng dịch như đã dịch. 
2. Sau đây là một số Phạn văn trong đoạn này: Ô ma: Uma, Tắc kiến đà: Skanda, Ma na tư: Manasi, Thông minh dạ thiên: Ratridevata, Phệ sốt nộ thiên: Visnu, Tì ma thiên nữ: Bhima, Thị số thiên thần: Samkhyayama (?), Thất lị thiện nữ: Sisumata, Hê lị: Heli, Ha ri để: Hariti. 

Ghi Chú (80) 
Triền: những sự ràng buộc tâm thức, cái: những sự che đậy tâm trí

Ghi Chú (81) 
Trần tập: tập khí của phiền não

Ghi Chú (82) 
Mãn tài: Purna - bhadra. Ngũ đỉnh: Pancasikhi. 

Ghi Chú (83) 
Thì gian thích hợp lẽ ra là sau lúc bình minh. 

Ghi Chú (84) 
Đúng chính văn là tâm chú - Tâm chú cũng như tâm kinh. Bài minh chú tinh túy, cốt lõi, thì gọi là tâm chú

Ghi Chú (85) 
Là mỗi tháng âm lịch mà là nửa trước. Đối lại, nửa sau gọi là tháng trăng tối. 

Ghi Chú (86) 
Coi lại ghi chú 68 . 

Ghi Chú (87) 
Các pháp có gì là hiện tượng, các pháp là gì là bản thể. Tùy hiện tượng mà biết thì gọi là như lượng trí (cái trí biết hết cái lượng của các pháp). Như bản thể mà biết thì gọi là như lý trí (cái trí biết đúng cái thể của các pháp). 

Ghi Chú (88) 
Tra không ra. Đọc mâu thử cũng chỉ đọc theo bán âm. Và theo bán âm này mà suy thì mâu thử có thể là một loại mâu. 

Ghi Chú (89) 
Coi lại ghi chú 76 . 

Ghi Chú (90) 
Đề này, đúng chính văn là chư thiêndược xoa hộ trì. Nhưng nội dung phẩm này nói tám bộ hộ trì, nhất là bộ chúng dược xoa. Nên Phạn văn chỉ đề Yaksa. 

Ghi Chú (91) 
Hành xứ: chỗ đi. Là chỗ Phật biết và Phật làm, gọi là hành xứ của Phật. 

Ghi Chú (92) 
Sau đây là Phạn văn những tên trong các bài chỉnh cú 25-41. Hồ vô nhiệt: Anayatapta, Sa yết ra: Sagara, Tô la kim sí chủ: Asura (metri causa), Phệ sốt nộ: Visnu, Diêm la: Yama, Na la diên: Narayama, Tự tại: Mahesvara, Chánh liễu tri: Sanjaya, Kim cương dược xoa: Vajrapani, Bảo vương dược xoa chủ: Manibhadra, Mãn hiền vương: Purnabhadra, Khoáng dã: Atavaka, Kim tì la: Kumbira, Tân độ la: Pingala, Hoàng sắc: Kapila 

Ghi Chú (93) 
Đây là Phạn văn những tên trong các chỉnh cú 43-46. Thái quân: Citrasena, Vi vương: Jinaraja, Thường chiến thắng: Jinarsabha, Châu cảnh: Manikanta, Thanh cảnh: Nilakanta, Bột lý sa vương: Varsadhipati, Đại tối thắng: Mahagrasa, Đại hắc: Mahakala, Tô bạt noa kê xá: Suvarnakesin, Bán chi ca: Pancika, Dương túc: Chagarapada, Đại bà dà: Mahabhaga, Tiểu cừ: Pranali, Hộ pháp: Dharmapala, Di hầu vương: Markada, Châm mao: Suciloma, Nhật chi: Suryamitra, Bảo phát: Ratnakesa, Đại cừ: Mahapranali, Nặc câu la: Nakula, Chiên đàn: Candana, Dục trung thắng: Kamasresta, Xá la: Nagayasas, Tuyết sơn: Hemavanta, Sa đa sơn: Satagiri. 

Ghi Chú (94) 
Đây là Phạn văn của các tên trong chỉnh cú 48. A na bà đáp đa: Anavatapta, Sa yết ra: Sagara, Mục chân: Mucilinda, EÁ la diệp: Erapata, Nan đà: Nanda, Nan đà nhỏ: Upananda. 

Ghi Chú (95) 
Phạn văn các tên trong chỉnh cú 50. Bà trĩ: Vali, La hầu la: Rahula, Tì ma chất đa la: Vemacitra, Mẫu chỉ chiêm bạt ra: Samavara, Đại kiên: Khuraskanda, 

Ghi Chú (96) 
Phạn văn các tên trong chỉnh cú 52 và 53. Ha lị để: Haliti, Chiên trà: Canda, Chiên trà lị: Candalika, Chiên trĩ nữ: Candika, Côn đế: Danti, Câu tra xỉ: Kutadanti, Hút tinh chất chúng sinh: Sarvasattojaharini. 

Ghi Chú (97) 
Thực phẩm vào dạ dầy thì một mặt thành đại tiểu thải ra, một mặt thành tự vị nuôi thân. Vị là tư vị ấy. 

Ghi Chú (98) 
Ngang đây rõ ràng là thiếu. Mà có thể thiếu không dưới vài ba câu. Đáng lẽ nói thêm và kết thúc về tướng chết, mới nói về thuốc. Ở đây nói liền về thuốc thì không thích đáng. Bản dịch Đàm mô sấm càng không hơn gì. 


Ghi Chú (99) 
3 trái là ha lê lặc ca, ca ma lặc ca, tỉ tỉ đắc ca. 3 cay là can cương, hồ tiêu, tất bát. (Chính 39/326). 

Ghi Chú (100) 
Chính văn là câu vật đầu. Có người nói là sen trắng, có người nói là sen hồng, có người nói chưa nở thì trắng, nở rồi hồng đậm. Ở đây ý kiến sen trắng thích hợp hơn. 

Ghi Chú (101) 
Đại thế chúa (Mahaprajabati) (?) 

Ghi Chú (102) 
Là 5 vị tỷ kheo đầu tiên của Phật. 

Ghi Chú (103) 
Có 3 kinh nói đến, tôi chọn 1: kinh Phạn ma dụ. Kinh ấy nói 8 đặc tính của tiếng Phật là tuyệt diệu, dễ hiểu, sâu xa, dịu ngọt, không dối, không lầm, tuệ giác, điều hòa (Chính 39/337). 

Ghi Chú (104) 
Lẽ ra nên nói trái lại

Ghi Chú (105) 
Đẳng trì: dị danh của định. 

Ghi Chú (106) 
Lược bớt 1 ví dụ là sóng nắng (chỉ để cho chỉnh chữ). Ảo tượng, sóng nắng, trăng dưới nước, là biến thể muôn vàn

Ghi Chú (107) 
Chỗ Phật ở chỗ Phật đi là chân nhưtuệ giác chân như

Ghi Chú (108) 
Từ là lời tiếng (gồm cả ngữ văn). Biện là hùng biện.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19671)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23930)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41167)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19657)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23940)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21728)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23280)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27472)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26520)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29278)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33138)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20167)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25722)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20880)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31259)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38505)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21392)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44207)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29780)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42122)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22109)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45670)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32066)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23933)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24338)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29218)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33874)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27651)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32083)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21030)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28824)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21525)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 27998)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22046)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21410)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19473)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19442)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19800)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19208)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29123)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20590)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28257)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23615)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33134)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31802)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21354)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39579)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21526)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19355)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26323)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24784)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21726)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22348)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29102)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22534)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20451)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23471)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21216)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35255)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24532)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant